thumbnail

Journal of Consumer Psychology

  1057-7408

 

 

Cơ quản chủ quản:  John Wiley & Sons Inc. , JOHN WILEY & SONS LTD

Lĩnh vực:
MarketingApplied Psychology

Các bài báo tiêu biểu

Các mức độ cấu trúc và khoảng cách tâm lý: Tác động đến sự biểu diễn, dự đoán, đánh giá và hành vi Dịch bởi AI
Tập 17 Số 2 - Trang 83-95 - 2007
Yaacov Trope, Nira Liberman, Cheryl Wakslak

Thuyết mức độ cấu trúc (CLT) giải thích cách mà khoảng cách tâm lý ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của cá nhân. CLT giả định rằng con người tưởng tượng các đối tượng gần gũi về mặt tâm lý theo đặc điểm chi tiết, cụ thể và có ngữ cảnh, trong khi ở khoảng cách xa, họ lại tưởng tượng những đối tượng hoặc sự kiện đó theo những đặc điểm trừu tượng, tổng quát và ổn định. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các chiều khác nhau của khoảng cách tâm lý (thời gian, không gian, khoảng cách xã hội và khả năng giả định) ảnh hưởng đến cách cấu trúc tư duy và rằng những cấu trúc này, ngược lại, hướng dẫn dự đoán, đánh giá và hành vi. Bài báo hiện tại tổng hợp nghiên cứu này và những tác động của nó đối với tâm lý người tiêu dùng.

Những Trải Nghiệm Siêu Nhận Thức Trong Sự Phán Đoán và Ra Quyết Định Của Người Tiêu Dùng Dịch bởi AI
Tập 14 Số 4 - Trang 332-348 - 2004
Norbert Schwarz

Quá trình suy reasoning của con người đi kèm với những trải nghiệm siêu nhận thức, nổi bật nhất là sự dễ dàng hoặc khó khăn trong việc hồi tưởng và tạo ra suy nghĩ, cùng với sự lưu loát mà thông tin mới có thể được xử lý. Những trải nghiệm này có giá trị thông tin riêng của chúng. Chúng có thể đóng vai trò làm cơ sở đánh giá ngoài thông tin khẳng định, hoặc thậm chí làm giảm giá trị của thông tin khẳng định, và có thể làm rõ các kết luận được rút ra từ nội dung được hồi tưởng. Điều mà con người rút ra từ một trải nghiệm siêu nhận thức cụ thể phụ thuộc vào lý thuyết ngây thơ mà họ áp dụng cho các quá trình tâm lý, khiến cho các kết quả trở nên rất khác nhau. Các đánh giá thu được không thể được dự đoán chỉ dựa trên thông tin khẳng định có sẵn; chúng ta không thể hiểu sự phán đoán của con người mà không xem xét sự tương tác giữa thông tin khẳng định và thông tin trải nghiệm.

#siêu nhận thức #phán đoán #quyết định #trải nghiệm #thông tin khẳng định #tâm lý học
The Influence of Goal-Directed and Experiential Activities on Online Flow Experiences
Tập 13 - Trang 3-16 - 2003
Thomas P. Novak, Donna L. Hoffman, Adam Duhachek
Lời truyền miệng và giao tiếp giữa các cá nhân: Một bài tổng quan và định hướng nghiên cứu trong tương lai Dịch bởi AI
Tập 24 Số 4 - Trang 586-607 - 2014
Jonah Berger
Tóm tắt

Con người thường chia sẻ ý kiến và thông tin với các mối quan hệ xã hội của họ, và lời truyền miệng có tác động quan trọng đến hành vi tiêu dùng. Nhưng điều gì thúc đẩy giao tiếp giữa các cá nhân và tại sao mọi người lại nói về những điều nhất định mà không phải những điều khác? Bài viết này lập luận rằng lời truyền miệng là động lực và phục vụ năm chức năng chính (tức là, quản lý ấn tượng, điều tiết cảm xúc, thu thập thông tin, gắn kết xã hội, và thuyết phục). Quan trọng hơn, tôi cho rằng những động lực này chủ yếu phục vụ cho bản thân (thay vì người khác) và thúc đẩy nội dung mà mọi người nói đến ngay cả khi họ không nhận thức được điều đó. Hơn nữa, những động lực này đưa ra các dự đoán về loại tin tức và thông tin mà mọi người có khả năng thảo luận cao nhất. Bài viết này xem xét năm chức năng được đề xuất cũng như cách các yếu tố bối cảnh (tức là, khán giả và kênh giao tiếp) có thể điều chỉnh chức năng nào đóng vai trò lớn hơn. Tổng thể, bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố tâm lý hình thành lời truyền miệng và phác thảo những câu hỏi bổ sung cần nghiên cứu thêm.

#lời truyền miệng #giao tiếp giữa cá nhân #hành vi tiêu dùng #quản lý ấn tượng #điều tiết cảm xúc #thu thập thông tin #gắn kết xã hội #thuyết phục
Ảnh hưởng của Xuất xứ Thương hiệu Nội địa và Ngoại địa đến Thái độ Người tiêu dùng ở Các nước Đang phát triển Dịch bởi AI
Tập 9 Số 2 - Trang 83-95 - 2000
Rajeev Batra, Venkatram Ramaswamy, Dana L. Alden, Jan‐Benedict E.M. Steenkamp, Sangamitra Ramachander

Nghiên cứu này đã kiểm tra xem, trong số người tiêu dùng ở các nước đang phát triển, những thương hiệu được cảm nhận là có xuất xứ không phải từ địa phương, đặc biệt là từ phương Tây, có được ưa chuộng hơn những thương hiệu được coi là nội địa hay không, không chỉ vì lý do chất lượng được cảm nhận mà còn vì lý do địa vị xã hội. Chúng tôi phát hiện rằng hiệu ứng không phải địa phương của thương hiệu này lớn hơn đối với những người tiêu dùng có sự ngưỡng mộ lớn hơn đối với lối sống tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, điều này phù hợp với các phát hiện từ tài liệu nhân học văn hóa. Hiệu ứng này cũng được tìm thấy là mạnh hơn đối với những người tiêu dùng có độ nhạy cao với ảnh hưởng chuẩn mực và cho các danh mục sản phẩm có giá trị tín hiệu xã hội cao. Hiệu ứng này cũng bị ảnh hưởng bởi độ quen thuộc với danh mục sản phẩm, nhưng không bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dân tộc của người tiêu dùng. Do đó, kết quả cho thấy rằng ở các nước đang phát triển, xuất xứ của thương hiệu không chỉ hoạt động như một "vầng hào quang chất lượng" hoặc tóm tắt chất lượng sản phẩm (so sánh với Han, 1989), mà còn có một chiều hướng không phải địa phương mà, trong số một số người tiêu dùng và cho một số danh mục sản phẩm, đóng góp vào sự ưa thích thái độ vì lý do làm tăng địa vị xã hội.

Mô hình mối quan hệ gắn bó–khước từ (AA) của khách hàng và thương hiệu Dịch bởi AI
Tập 23 - Trang 229-248 - 2013
C. Whan Park, Andreas B. Eisingerich, Jason Whan Park
Tóm tắt

Bài báo này đề xuất một mô hình mối quan hệ giữa khách hàng và thương hiệu và tiến hành kiểm nghiệm thực nghiệm những điều sau: (1) khoảng cách giữa thương hiệu và bản thânsự nổi bật của thương hiệu, đại diện cho mối quan hệ gắn bó–khước từ (AA Relationships) của khách hàng với thương hiệu, (2) những khác biệt đặc trưng chính giữa thước đo AA Relationships và các thước đo mối quan hệ thay thế khác (ví dụ: gắn bó với thương hiệu, giá trị cảm xúc và độ mạnh của thái độ thương hiệu) dựa trên một tập hợp các biến phụ thuộc, (3) ba yếu tố chính xác định mối quan hệ AA và quy trình cơ bản giữa AA Relationships với ý định hành vi và hành vi thực tế của thương hiệu, và (4) độ tuổi của khách hàng đóng vai trò điều tiết mối quan hệ giữa khách hàng và thương hiệu được xác định trong mô hình thiết lập lý thuyết của AA Relationships. Kết quả cung cấp sự ủng hộ mạnh mẽ cho đóng góp độc đáo và quan trọng của mô hình AA Relationships như một đại diện cho giá trị mối quan hệ của người tiêu dùng với một thương hiệu và sự nổi bật của nó.

Cảm xúc và Quyết định Tiêu dùng: Khung Đánh giá Xu hướng Dịch bởi AI
Tập 17 Số 3 - Trang 158-168 - 2007
Seunghee Han, Jennifer S. Lerner, Dacher Keltner

Bài viết này trình bày Khung Đánh giá Xu hướng (ATF; Lerner & Keltner, 2000, 2001; Lerner & Tiedens, 2006) như một cơ sở để dự đoán ảnh hưởng của những cảm xúc cụ thể đến quá trình ra quyết định của người tiêu dùng. Cụ thể, ATF phân tích cách mà những cảm xúc cụ thể từ các tình huống trước đó ảnh hưởng đến các phán đoán và lựa chọn trong tương lai. Sau khi xem xét các giả định chính và 5 nguyên tắc chính của khung lý thuyết này, bài viết trình bày 2 dòng nghiên cứu. Một dòng nghiên cứu xem xét các hiệu ứng di chuyển cảm xúc trong đánh giá rủi ro; dòng nghiên cứu còn lại xem xét các hiệu ứng di chuyển trong đánh giá giá trị tiền tệ. Bởi vì việc đánh giá rủi ro và đánh giá giá trị là những quá trình tâm lý cơ bản, việc hiểu rõ chúng có khả năng mang lại nhiều hệ quả cho quá trình phán đoán và ra quyết định của người tiêu dùng. Các phần kết luận làm nổi bật những hạn chế và hướng phát triển trong tương lai của khung lý thuyết này.

Cách Tự Quyết Tâm Tạo Ra Các Giá Trị Khác Nhau: Trường Hợp Ra Quyết Định Thúc Đẩy và Ngăn Chặn Dịch bởi AI
Tập 12 Số 3 - Trang 177-191 - 2002
E. Tory Higgins

Tôi đề xuất rằng các mối quan hệ khác nhau giữa các thành phần cơ bản của việc tự điều chỉnh tạo ra các loại giá trị quyết định khác nhau: (a) Giá trị kết quả được sản sinh khi các hậu quả của một quyết định có liên quan đến định hướng quy định của người ra quyết định, (b) giá trị từ sự phù hợp được sản sinh khi các phương tiện theo đuổi mục tiêu phù hợp với định hướng quy định của người ra quyết định, và (c) giá trị từ phương tiện phù hợp được sản sinh khi các phương tiện theo đuổi mục tiêu đồng thuận với các quy tắc và nguyên tắc chuẩn mực đã được thiết lập. Tôi sử dụng sự phân biệt giữa định hướng điều chỉnh tập trung vào sự thúc đẩy, liên quan đến những khát vọng và thành tựu, và định hướng phòng ngừa, liên quan đến sự an toàn và trách nhiệm (Higgins, 1997, 1998) để minh họa cho giá trị kết quả và giá trị từ sự phù hợp. Việc biện minh cho một quyết định được sử dụng để minh họa cho giá trị từ phương tiện phù hợp. Tôi đề xuất rằng những người ra quyết định ít có khả năng phân biệt giữa các trải nghiệm của họ về 3 loại giá trị này, và do đó giá trị từ sự phù hợp và giá trị từ phương tiện phù hợp có thể được chuyển giao cho giá trị kết quả. Tôi trình bày bằng chứng cho việc chuyển giao giá trị như vậy và xem xét những hệ quả của nó đối với giá trị cho khách hàng. Tôi cũng xem xét lại chi phí chìm và hiệu ứng sở hữu trong bối cảnh có giá trị vượt ra ngoài giá trị kết quả.

Brands as intentional agents framework: How perceived intentions and ability can map brand perception
Tập 22 Số 2 - Trang 166-176 - 2012
Nicolas Kervyn, Susan T. Fiske, Chris Malone
Abstract

Building on the Stereotype Content Model, this paper introduces and tests the Brands as Intentional Agents Framework. A growing body of research suggests that consumers have relationships with brands that resemble relations between people. We propose that consumers perceive brands in the same way they perceive people. This approach allows us to explore how social perception theories and processes can predict brand purchase interest and loyalty. Brands as Intentional Agents Framework is based on a well‐established social perception approach: the Stereotype Content Model. Two studies support the Brands as Intentional Agents Framework prediction that consumers assess a brand's perceived intentions and ability and that these perceptions elicit distinct emotions and drive differential brand behaviors. The research shows that human social interaction relationships translate to consumer–brand interactions in ways that are useful to inform brand positioning and brand communications.

Động lực dựa trên danh tính: Những tác động đối với sự sẵn sàng hành động, sự sẵn sàng thực hiện quy trình và hành vi tiêu dùng Dịch bởi AI
Tập 19 Số 3 - Trang 250-260 - 2009
Daphna Oyserman
Tóm tắt

Các lựa chọn thường dựa trên danh tính, nhưng mối liên hệ với danh tính không nhất thiết phải rõ ràng hoặc hiển nhiên vì một số lý do. Đầu tiên, danh tính cảm thấy ổn định nhưng thực sự rất nhạy cảm với các tín hiệu tình huống. Thứ hai, danh tính không chỉ bao gồm nội dung mà còn cả sự sẵn sàng hành động và sử dụng các quy trình phù hợp với danh tính. Thứ ba, danh tính có thể được kích thích một cách tinh tế mà không có nhận thức ý thức. Thứ tư, ý nghĩa của một danh tính có thể tiếp cận được được xây dựng một cách linh hoạt trong bối cảnh cụ thể mà nó được kích thích. Bởi vì danh tính mang lại sự sẵn sàng hành động và thực hiện quy trình, kết quả của quá trình động lực dựa trên danh tính có thể tương tự hoặc khác với những lựa chọn mà một cá nhân sẽ thực hiện trong một bối cảnh khác. Hơn nữa, một khi danh tính được hình thành, sự sẵn sàng hành động và thực hiện quy trình có thể được kích thích mà không cần nhận thức ý thức hoặc xử lý hệ thống, dẫn đến kết quả có lợi hoặc bất lợi.