Nhiễm khuẩn hô hấp là gì? Các công bố khoa học về Nhiễm khuẩn hô hấp

Nhiễm khuẩn hô hấp là một nguyên nhân chính gây bệnh toàn cầu, ảnh hưởng đến mũi, họng, xoang, thanh quản, phổi và phế quản, do vi khuẩn, virus hoặc nấm gây ra. Các triệu chứng phổ biến gồm ho, sốt, khó thở, đau họng, xoang tắc nghẽn. Chẩn đoán cần các xét nghiệm như chụp X-quang phổi, xét nghiệm máu. Điều trị tùy vào nguyên nhân gồm kháng sinh, thuốc kháng virus. Phòng ngừa thông qua vệ sinh cá nhân, tiêm phòng cúm, tránh tiếp xúc với người bệnh. Hiểu biết và can thiệp y tế kịp thời giúp điều trị hiệu quả.

Nhiễm Khuẩn Hô Hấp: Khái Niệm và Phân Loại

Nhiễm khuẩn hô hấp là một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh tật trên toàn cầu, ảnh hưởng đến các bộ phận của hệ hô hấp như mũi, họng, xoang, thanh quản, phổi và phế quản. Nhiễm khuẩn có thể do vi khuẩn, virus hoặc nấm gây ra.

Nguyên Nhân Gây Nhiễm Khuẩn Hô Hấp

Nguyên nhân phổ biến gây nhiễm khuẩn hô hấp bao gồm:

  • Virus: Gây ra đa số các bệnh hô hấp cấp tính, bao gồm cúm và cảm lạnh thông thường.
  • Vi khuẩn: Nhiễm khuẩn phế cầu khuẩn và liên cầu khuẩn thường gặp trong nhiễm trùng phổi và viêm phế quản.
  • Nấm: Thường ít phổ biến hơn, nhưng có thể nghiêm trọng, đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch.

Các Triệu Chứng Thường Gặp

Triệu chứng của nhiễm khuẩn hô hấp có thể khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân và vị trí nhiễm trùng, bao gồm:

  • Ho, có thể có đờm
  • Sốt
  • Khó thở
  • Đau họng
  • Xoang bị tắc nghẽn

Chẩn Đoán và Điều Trị

Chẩn đoán: Để xác định nguyên nhân chính xác của nhiễm khuẩn hô hấp, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện các xét nghiệm như xét nghiệm máu, chụp X-quang phổi, và xét nghiệm đờm.

Điều trị: Phương pháp điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng:

  • Kháng sinh: Được sử dụng cho các trường hợp nhiễm vi khuẩn.
  • Thuốc kháng virus: Sử dụng trong trường hợp nhiễm virus nghiêm trọng, chẳng hạn như cúm.
  • Thuốc giảm đau và hạ sốt: Giảm triệu chứng và tăng cường cảm giác thoải mái.

Phòng Ngừa Nhiễm Khuẩn Hô Hấp

Các biện pháp phòng ngừa có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn hô hấp, bao gồm:

  • Rửa tay thường xuyên với xà phòng và nước.
  • Tránh tiếp xúc gần với người bị nhiễm bệnh.
  • Tiêm phòng cúm hàng năm.
  • Giữ ấm thân thể và duy trì lối sống lành mạnh.

Kết Luận

Nhiễm khuẩn hô hấp là một vấn đề sức khỏe phổ biến nhưng có thể phòng ngừa và điều trị hiệu quả với sự hiểu biết đúng đắn và can thiệp y tế kịp thời. Việc duy trì vệ sinh cá nhân và tiêm phòng đầy đủ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiễm khuẩn hô hấp":

Thực hành chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của các bà mẹ có con đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La năm 2019
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 02 - Trang 118-124 - 2023
Mục tiêu: Mô tả thực trạng việc thực hành chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của các bà mẹ có con đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La năm 2019 và một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích trên 200 bà mẹ có con từ 2 tháng đến dưới 5 tuổi bị mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đến khám tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2019. Kết quả: Trong 179 bà mẹ có con bị ho, 62.6% chọn thuốc giảm ho tây y, 26.8% bà mẹ chọn thuốc giảm ho đông y, 25.7% bà mẹ cho uống kháng sinh; Trong 167 bà mẹ có con bị sốt, 79.6% bà mẹ cho uống thuốc hạ sốt, 79.0% bà mẹ cho con mặc thoáng và trườm ấm, 38.3% bà mẹ cho con uống thêm nước; Trong 100 bà mẹ có con bị chảy mũi, 66.3% bà mẹ hút mũi cho trẻ, 52.5% bà mẹ thấm, lau dịch mũi cho trẻ. Trong đợt bệnh của trẻ, tỷ lệ bà mẹ cho con ăn, uống nhiều hơn là 63.0% và 39.5%. Có 81.5% bà mẹ lau, tắm cho trẻ bằng nước ấm hàng ngày, 78.0% bà mẹ giữ ấm cho trẻ. Đánh giá chung, chỉ 43.5% bà mẹ xử trí đúng khi con bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, sự tiếp cận thông tin về bệnh có liên quan đến thực hành của các bà mẹ. Kết luận: Tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng còn thấp. Cần chú ý đến những yếu tố liên quan khi giáo dục chăm sóc trẻ bệnh cho bà mẹ.
#Xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính #yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
Thay đổi kiến thức và thái độ cho bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đang điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 3 - Trang 58-64 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ về bệnh, cách chăm sóc và dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đang điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau có nhóm chứng. 168 bà mẹ (84 ở nhóm chứng, 84 ở nhóm can thiệp) được chọn vào nghiên cứu thông qua phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Chương trình can thiệp giáo dục sức khỏe và bộ công cụ đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ trước và sau can thiệp do tác giả xây dựng, tham khảo bộ công cụ trong y văn và xin ý kiến chuyên gia điều chỉnh một số nội dung cho phù hợp với đặc điểm địa bàn và đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Kiến thức, thái độ của bà mẹ ở cả 2 nhóm về bệnh, chăm sóc và dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trước can thiệp còn thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm này trước can thiệp (p > 0,05). Sau can thiệp, điểm kiến thức và thái độ của bà mẹ nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng (p < 0,05). Đáng chú ý, trong khi nhóm đối chứng không có sự thay đổi về kiến thức, thái độ giữa hai thời điểm đánh giá (p > 0,05), nhóm can thiệp có sự cải thiện rõ rệt điểm số giữa trước và sau can thiệp (p > 0,05). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy chương trình can thiệp giáo dục sức khỏe có hiệu quả trong việc thay đổi kiến thức và thái độ cho các bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Chương trình nên được áp dụng rộng rãi hơn trên lâm sàng cũng như các đánh giá sâu hơn để đánh giá chính xác hơn tác dụng và nâng cao chất lượng của chương trình can thiệp
#Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính #kiến thức #thái độ #can thiệp giáo dục sức khỏe.
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐÀN HỒI CỤC MÁU (ROTEM) ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT CÓ THỜI GIAN PROTHROMBIN VÀ THỜI GIAN THROMBOPLASTIN HOẠT HÓA TỪNG PHẦN KÉO DÀI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1B - 2023
Mục tiêu: So sánh tình trạng rối loạn đông máu bằng phương pháp đo đàn hồi cục máu (ROTEM) ở bệnh nhân (BN) nhiễm khuẩn huyết (NKH) có INR >1,2 hay aPTTr >1,2 ở nhóm tử vong và nhóm sống nhập khoa hồi sức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang BN NKH nhập khoa Hồi sức tích cực, bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh có INR hay aPTT >1,2 từ  06/2020-12/2021. Kết quả: Có 95 BN NKH được chọn vào nghiên cứu từ 161 BN trong nghiên cứu gốc với tuổi trung vị là 70 [61-80], điểm SOFA trung vị là 7 [5-9]. Tỉ lệ tử vong chiếm tỉ lệ 25,3%. INR và aPTTr trung vị lần lượt là 1,42 [1,3-1,65] và 1,12 [4,1-6,8]. Nhóm tử vong có nồng độ fibrinogen máu thấp hơn, lactate máu và INR cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm sống (p <0.05). BN có INR >1,2 có tỉ lệ giảm đông, tăng đông, và đông máu bình thường trên ROTEM lần lượt là 58,2%, 26,4%, và 29,7%. BN có aPTTr >1,2 có tỉ lệ giảm đông, tăng đông, và đông máu bình thường trên ROTEM lần lượt là 65,7%, 14,3%, và 28,6%. Giảm đông trên ROTEM làm tăng tỉ lệ tử vong, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p >0.05). Kết luận: BN NKH hoặc SNK có INR hay aPTTr kéo dài có thể có tình trạng tăng đông, giảm đông và đông máu bình thường trên ROTEM.
#aPTT #APTTr #Đo đàn hồi cục máu #Nhiễm khuẩn huyết #INR Rối loạn đông máu #ROTEM
KẾT QUẢ ÁP DỤNG KỸ THUẬT LỌC MÁU HẤP PHỤ HUYẾT TƯƠNG KÉP (CPFA) TRONG ĐIỀU TRỊ HỖ TRỢ NGƯỜI BỆNH SỐC NHIỄM KHUẨN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Nhận xét một số kết quả cải thiện lâm sàng, cận lâm sàng khi áp dụng kỹ thuật lọc máu hấp phụ huyết tương kép (CPFA – Coupled Plasma Filtration & Adsorption) trong điều trị hỗ trợ người bệnh sốc nhiễm khuẩn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp, so sánh trước sau, không có nhóm chứng, trên 30 người bệnh sốc nhiễm khuẩn được CPFA bên cạnh các điều trị tiêu chuẩn theo hướng dẫn của Surviving Sepsis Campaign 2016, vào Trung tâm Hồi sức tích cực trong thời gian từ 02/2022 đến 08/2022. Kết quả: Các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng thay đổi có ý nghĩa thống kê cụ thể là cải thiện thông số mạch (111 so với 99,07, p=0,007), huyết áp trung bình (77,43 so với 86,57, p <0,001), giảm nhu cầu vận mạch (0,25 so với 0,05, p<0,001), giảm điểm SOFA (9,8 so với 6,9, p<0,001) và giảm nồng độ IL-6 (563,72 so với 359,63, p<0,001) khi so sánh trước và sau điều trị bằng CPFA. Tỷ lệ người bệnh tử vong trong thời gian nằm viện là 36,67% và sau 28 ngày là 43,33%. Kết luận: CPFA góp phần ổn định các thông số huyết động và cải thiện tình trạng suy đa tạng trên người bệnh sốc nhiễm khuẩn.
#CPFA #lọc máu hấp phụ #sốc nhiễm khuẩn #sepsis.
CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG TIÊU HÓA VÀ NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP Ở TRẺ 2-5 TUỔI SUY DINH DƯỠNG THẤP CÒI SAU 9 THÁNG BỔ SUNG SẢN PHẨM DINH DƯỠNG TẠI TUYÊN QUANG
Nghiên cứu thử nghiệm cộng đồng có đối chứng nhằm đánh giá hiệu quả cải thiện tình trạngdinh dưỡng (TTDD) và khẩu phần của trẻ 2-5 tuổi SDD thấp còi sau can thiệp dinh dưỡng tại 2xã thuộc huyện Yên Sơn, Tuyên Quang. Chọn 200 trẻ 2-5 tuổi bị SDD thấp còi có chỉ số Z-Scorechiều cao theo tuổi từ -3 SD ≤ Z-Score < -2 SD (WHO, 2007), chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm,nhóm can thiệp được uống bổ sung 2 gói sản phẩm dinh dưỡng/ngày liên tục trong 9 tháng, nhóm chứng thực hiện chế độ ăn bình thường và không sử dụng sản phẩm dinh dưỡng. Kết quả cho thấy, tỷ lệ trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp trên (mắc 6-10 lần) trong 9 tháng ở nhóm can thiệp thấp hơn so với nhóm chứng (26,5% so với 41,8%, p<0,05). Số đợt mắc nhiễm khuẩn hô hấp trung bình và số ngày mắc trung bình/đợt/trẻ ở nhóm can thiệp thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Tỷ lệ trẻ bị táo bón, phân sống trong 9 tháng ở nhóm can thiệp thấp hơn so với nhóm chứng (20,4%; 3,1% so với 34,7%; 21,4%, p<0,05). Tỷ lệ trẻ mắc tiêu chảy là 10,2% so với 17,3%, p>0,05. Sau 9 tháng, nhóm can thiệp có tỷ lệ trẻ mắc loạn khuẩn phân giảm thấp hơn so với ban đầu (36,3% so với 68,7%, p<0,05). Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng tăng cường vi chất trong 9 tháng có hiệu quả cải thiện tình trạng tiêu hóa và nhiễm khuẩn hô hấp ở trẻ 2-5 tuổi SDD thấp còi.
#Suy dinh dưỡng thấp còi #Nhiễm khuẩn hô hấp #Tiêu hóa #Trẻ 2-5 tuổi #Tuyên Quang
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC CHĂM SÓC TRẺ DƯỚI 5 TUỔI MẮC NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH CỦA BÀ MẸ TẠI BỆNH VIỆN NHI THÁI BÌNH NĂM 2020
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 62 Số 1 (2021) - Trang - 2021
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính hiện đang có tỷ lệ mắc và tử vong cao, là nguyên nhân hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật và đứng thứ 3 gây tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi. Việc chăm sóc, xử trí và phòng bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính không chỉ phụ thuộc vào cán bộ y tế mà còn phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức của bà mẹ. Bà mẹ có kiến thức tốt về bệnh, chăm sóc đóng vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh, phát hiện bệnh sớm và đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời, giúp giảm tỷ lệ mắc và tử vong cho trẻ. Từ thực tế đó nghiên cứu được tiến hành nhằm mục đích mô tả thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Thái Bình năm 2020. Kết quả nghiên cứu có thấy, kiến thức chung của bà mẹ về bệnh, chăm sóc, dự phòng NKHHCT còn hạn chế với điểm trung bình kiến thức chung của nhóm can thiệp là 22,0 ± 7,0 và nhóm đối chứng là 22,5 ± 6,5 (tối đa 44 điểm). Điểm trung bình kiến thức về bệnh, chăm sóc và dự phòng lần lượt là: 12,0 ± 4,3; 4,9 ± 2,1; 5,1 ± 1,8 ở nhóm can thiệp và 12,4± 4,2, 5,0± 1,8, 5,0 ±1,9 ở nhóm đối chứng. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đạt ở cả 2 nhóm còn thấp: với 20,0% ở nhóm can thiệp và 21,7% ở nhóm đối chứng. Do vậy, việc tăng cường giáo dục sức khỏe cho bà mẹ của cán bộ y tế đặc biệt là đội ngũ điều dưỡng là rất cần thiết.
#Kiến thức #nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính #Thái Bình
HIỆU QUẢ CAN THIỆP BỔ SUNG VITAMIN D CẢI THIỆN TỶ LỆ NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP Ở TRẺ DƯỚI 5 TUỔI TẠI AN LÃO, HẢI PHÒNG NĂM 2017
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 1 - 2021
Mục tiêu. Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả cải thiện nồng độ vitamin D và tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp cấp bằng bổ sung vitamin D liều 500 IU hàng ngày trong thời gian 1 năm. Đối tượng và phương pháp. Đối tượng gồm 164 trẻ chia thành 2 nhóm can thiệp và nhóm chứng mỗi nhóm 82 đối tượng. Phương pháp nghiên cứu can thiệp cộng đồng, đánh giá trước sau có đối chứng. Kết quả và kết luận. Sau can thiệp nồng độ vitamin D trung bình của nhóm can thiệp tăng thêm 5,54 ng/ml so với của nhóm chứng là 1,38ng/ml, nồng độ vitamin D trung bình tăng thêm là 4,16ng/ml. Can thiệp vitamin D đã làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp ở nhóm can thiệp được 37,2% so với nhóm chứng là 20,7%, tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp của nhóm can thiệp giảm hơn nhóm chứng là 22,7%.
#Nghiên cứu can thiệp #hiệu quả #vitamin D #nhiễm khuẩn hô hấp
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG TRẺ 6-23 THÁNG TUỔI ĐANG MẮC NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP VÀ MỘT SỐ THỰC HÀNH NUÔI TRẺ CỦA BÀ MẸ TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI TỈNH HÀ NAM NĂM 2016-2018
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 62 Số 4 (2021) - Trang - 2021
Điều tra theo phương pháp cắt ngang mô tả trên 523 cặp mẹ con trẻ 6-23 tháng tuổi đang mắc nhiễmkhuẩn hô hấp cấp vào điều trị tại Bệnh viện Sản nhi tỉnh Hà Nam năm 2016-2018 nhằm đánh giátình trạng dinh dưỡng của trẻ và mô tả một số thực hành nuôi trẻ của bà mẹ. Kết quả cho thấy: Tỷ lệSDD thấp còi và gầy còm của trẻ ở mức cao: 21,2% và 11,1% (tương ứng); tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là14,0%. Tỷ lệ bà mẹ cho con bú muộn sau 1 giờ đầu sau sinh và tỷ lệ bà mẹ cho cho con ăn bổ sungquá sớm hoặc quá muộn (trước 6 tháng hoặc sau 8 tháng tuổi) khá cao: 62,5% và 53,0% (tương ứng);tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu là 24,3%. Những trẻ được bắt đầu cho ăn bổsung không đúng thời điểm so với những trẻ được cho ăn đúng thời điểm có tỷ lệ SDD thấp còi caohơn: 24,2% và 18,8% (tương ứng) (OR=1,4; 95%CI 0,9-2,3) nhưng chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩathống kê (p=0,1075); tỷ lệ SDD nhẹ cân cũng cao hơn: 19,5% và 7,8% (tương ứng) khác biệt có ýnghĩa thống kê rất rõ rệt (OR=2,9; 95%CI 1,6-5,3; p=0,0001).
#Tình trạng dinh dưỡng #trẻ 6-23 tháng tuổi #nhiễm khuẩn hô hấp cấp
THAY ĐỔI KIẾN THỨC, THỰC HÀNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH CỦA BÀ MẸ CÓ CON NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH SAU GIÁO DỤC SỨC KHỎE TẠI BỆNH VIỆN ĐÔNG HƯNG -THÁI BÌNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện đa khoa Đông Hưng - Thái Bình sau giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:  Nghiên cứu thực hiện trên 97 bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện đa khoa Đông Hưng từ tháng 3/2020 đến tháng 6/ 2020. Với phương pháp nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe có so sánh trước - sau trên một nhóm đối tượng về kiến thức sử dụng kháng sinh dựa trên hướng dẫn sử dụng kháng sinh của Bộ Y tế và khuyến cáo của WHO.Kết quả:  Trước can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của các bà mẹ còn thấp. Trước can thiệp bà mẹ có kiến thức đạt là 34%, điểm trung bình là 7,85 ± 4,05 trên tổng điểm 18, bà mẹ có thực hành đạt là 43,3%, điểm trung bình là 6,3 ± 2,09 trên tổng điểm 12. Sau can thiệp, kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của các bà mẹ tăng đáng kể và đạt 100%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,01. Kết luận: Kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của các bà mẹ trước can thiệp còn hạn chế nhưng đã cải thiện đáng kể sau can thiệp. Điều này cho thấy hiệu quả của giáo dục sức khỏe trong việc nâng cao kiến thức, thực hành cho các bà mẹ về sử dụng kháng sinh.
#Thay đổi kiến thức #sử dụng kháng sinh #nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
Thực trạng kiến thức và một số yếu tố liên quan đến chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 2 - Trang 73-80 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng chăm sóc dinh dưỡng và xác định các yếu tố liên quan đến chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu gồm 75 bà mẹ có con từ 6-24 tháng tuổi điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 75 bà mẹ. Kết quả: Điểm trung bình kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ 6-24 tháng là 0,5 ± 0,7, điểm trung bình kiến thức cho trẻ 6-24 tháng ăn bổ sung là 6,5 ± 1,8, điểm trung bình kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là 1,1 ± 0,5, điểm trung bình kiến thức cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ăn bổ sung là 0,4 ± 0,6, điểm trung bình kiến thức của bà mẹ về bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là 3,5 ± 1,1, điểm trung bình chung kiến thức của bà mẹ là 13,0 ± 4,7. Vẫn còn 42,7% bà mẹ có kiến thức chưa đạt. Có mối liên quan giữa kiến thức của bà mẹ với trình độ học vấn và số con của bà mẹ. Nghiên cứu bước đầu cho thấy kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ chưa tốt, cần có những can thiệp giáo dục sức khoẻ cải thiện kiến thức chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ để trẻ được chăm sóc tốt hơn, nhất là khi trẻ bị bệnh. Kết luận: Kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng tương đối thấp. Các yếu tố như trình độ học vấn,số con của bà mẹ có ảnh hưởng đến kiến thức của bà mẹ.
#Dinh dưỡng #nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
Tổng số: 42   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5