Hydroxy là gì? Các công bố khoa học về Hydroxy
Hydroxy (cũng được biết đến với tên gọi hydroxyl) là một nhóm chức –OH gắn vào một phân tử hữu cơ hoạt động hay một phân tử vô cơ. Đây là một nhóm chức quan trọ...
Hydroxy (cũng được biết đến với tên gọi hydroxyl) là một nhóm chức –OH gắn vào một phân tử hữu cơ hoạt động hay một phân tử vô cơ. Đây là một nhóm chức quan trọng, thường được tìm thấy trong hợp chất hữu cơ như các cồn, phenol và axit carboxylic. Hydorxy cũng có thể được tạo ra trong quá trình phản ứng hoá học.
Hydroxy (-OH) là nhóm chức chứa một nguyên tử hiđro (H) được gắn vào một nguyên tử oxi (O). Đây là một nhóm chức pola và có khả năng tạo liên kết hydrogen với các nhóm chức khác.
Trong hợp chất hữu cơ, hydroxy thường được tìm thấy trong các cơ cấu như cồn, phenol, axit carboxylic và ether. Ví dụ, ethanol (C2H5OH) là một cồn, do có một nhóm hydroxy gắn vào một nguyên tử cacbon. Trong phenol (C6H5OH), một nhóm hydroxy gắn vào một vòng benzen. Các axit carboxylic (như axit axetic) cũng chứa một nhóm hydroxy kết hợp với một nhóm carboxyl. Ether (như dimethyl ether) có thể có một hoặc nhiều nhóm hydroxy gắn vào một hoặc nhiều nguyên tử cacbon.
Hydroxy cũng có thể được tạo ra trong quá trình phản ứng hoá học. Ví dụ, khi hiđrocacbon (alkane) bị oxi hóa trong môi trường axit, nguyên tử hiđro có thể bị thay thế bằng nhóm hydroxy, tạo thành các hợp chất hữu cơ có nhóm chức hydroxy. Hydroxy cũng có thể được thêm vào các phân tử vô cơ, chẳng hạn như khi axit sulfuric tác động lên nước, tạo thành axit sunfua (H2SO4) và hydroxy (OH-).
Hydroxy (-OH) là một nhóm chức được tạo thành từ một nguyên tử hiđro (H) gắn vào một nguyên tử oxi (O). Đây là một nhóm chức pola, có tính chất đặc trưng và thường tham gia vào nhiều phản ứng hóa học quan trọng.
Hydroxy thường được tìm thấy trong hợp chất hữu cơ như cồn (được tạo bởi một nhóm hydroxy kết hợp với một nguyên tử cacbon), phenol (một nhóm hydroxy kết hợp với vòng benzen), axit carboxylic (có một nhóm hydroxy và một nhóm carboxyl) và ether (có một hoặc nhiều nhóm hydroxy gắn vào nguyên tử cacbon).
Nhóm hydroxy có tính chất pola, khiến chúng có khả năng tạo liên kết hydrogen với các nhóm chức khác. Liên kết hydrogen là một loại liên kết yếu được hình thành khi một nguyên tử hiđro trong nhóm hydroxy tương tác với một nguyên tử điện âm khác (như oxi, nitơ hoặc flor). Liên kết hydrogen này rất quan trọng trong nhiều quá trình sinh học và phản ứng hóa học, đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc và tương tác của các hợp chất chứa nhóm hydroxy.
Một số ví dụ khác về các hợp chất có nhóm hydroxy bao gồm glucose (một loại đường có năm nhóm hydroxy), glycerol (một cồn có ba nhóm hydroxy), và axit salicylic (có một nhóm hydroxy gắn vào một vòng benzen). Các liên kết hydroxy cũng có thể tạo ra các đa dạng cấu trúc phân tử và tương tác phức tạp, góp phần vào tính chất và chức năng của các hợp chất.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hydroxy":
Dữ liệu động học cho các gốc tự do H⋅ và ⋅OH trong dung dịch nước, và các anion gốc tự do tương ứng, ⋅O− và eaq−, đã được phân tích kỹ qua phương pháp xung bức, xung quang học và các phương pháp khác. Hằng số tốc độ cho hơn 3500 phản ứng đã được lập bảng, bao gồm phản ứng với phân tử, ion và các gốc tự do khác có nguồn gốc từ các chất tan vô cơ và hữu cơ.
Superoxide dismutase giảm thiểu tổn thương trong nhiều quá trình bệnh lý, cho thấy gốc superoxide anion (O2-.) là một loài độc hại trong cơ thể sống. Một mục tiêu quan trọng của superoxide có thể là nitric oxide (NO.) được sản xuất bởi nội mô, đại thực bào, bạch cầu trung tính và đuôi thần kinh não. Superoxide và NO. được biết đến sẽ kết hợp nhanh chóng để tạo thành anion peroxynitrite ổn định (ONOO-). Chúng tôi đã chỉ ra rằng peroxynitrite có pKa là 7,49 +/- 0,06 ở 37 độ C và dễ dàng phân hủy sau khi bị proton hóa với thời gian bán phân hủy 1,9 giây ở pH 7,4. Sự phân hủy của peroxynitrite tạo ra một chất oxy hóa mạnh với mức độ phản ứng tương tự như gốc hydroxyl, qua việc đánh giá qua quá trình oxy hóa của deoxyribose hoặc dimethyl sulfoxide. Lượng sản phẩm hình thành, gợi ý cho gốc hydroxyl, là 5,1 +/- 0,1% và 24,3 +/- 1,0% tương ứng, từ peroxynitrite đã thêm vào. Sự hình thành sản phẩm không bị ảnh hưởng bởi chất tạo chelate kim loại diethyltriaminepentaacetic acid, cho thấy rằng sắt không cần thiết để xúc tác quá trình oxy hóa. Ngược lại, desferrioxamine là một chất ức chế cạnh tranh mạnh mẽ của oxidation do peroxynitrite khởi xướng vì có phản ứng trực tiếp giữa desferrioxamine và peroxynitrite thay vì tạo chelate với sắt. Chúng tôi đề xuất rằng superoxide dismutase có thể bảo vệ mô mạch máu bị kích thích để sản xuất superoxide và NO. trong điều kiện bệnh lý bằng cách ngăn cản sự hình thành của peroxynitrite.
Quá trình oxi hóa lipid có thể được mô tả chung là một quá trình mà các chất oxi hóa như các gốc tự do tấn công các lipid có chứa liên kết đôi carbon-carbon, đặc biệt là các axit béo không bão hòa đa (PUFAs). Trong bốn thập kỷ qua, một lượng lớn tư liệu về quá trình oxi hóa lipid đã cho thấy vai trò quan trọng của nó trong sinh học tế bào và sức khỏe con người. Từ đầu những năm 1970, tổng số bài báo nghiên cứu được công bố về chủ đề oxi hóa lipid chỉ là 98 (1970–1974) và đã tăng gần 135 lần, lên tới 13165 trong 4 năm qua (2010–2013). Những phát hiện mới về sự tham gia vào sinh lý và bệnh lý tế bào, cũng như việc kiểm soát quá trình oxi hóa lipid, tiếp tục xuất hiện mỗi ngày. Với sự rộng lớn của lĩnh vực này, bài tổng quan này tập trung vào các khái niệm hóa sinh của quá trình oxi hóa lipid, sản sinh, chuyển hóa, và cơ chế tín hiệu của hai sản phẩm oxi hóa lipid thuộc nhóm axit béo omega-6 chính: malondialdehyde (MDA) và đặc biệt là 4-hydroxy-2-nonenal (4-HNE), tổng hợp không chỉ về chức năng sinh lý và bảo vệ của nó như một phân tử tín hiệu kích thích sự biểu hiện gen và sự sống sót của tế bào, mà còn vai trò gây độc tế bào của nó khi ức chế biểu hiện gen và thúc đẩy cái chết tế bào. Cuối cùng, các tổng quan về các hệ thống mô hình động vật có vú
Methyl hóa các bazơ cytosine, 5-methylcytosine (5mC), trong DNA đóng vai trò điều tiết quan trọng trong bộ gen động vật có vú. Các kiểu methyl hóa thường di truyền qua các thế hệ, nhưng chúng cũng có thể thay đổi, gợi ý rằng có tồn tại các đường dẫn khử methyl hóa DNA chủ động. Một đường dẫn như vậy, được đặc trưng tốt nhất trong thực vật, bao gồm việc loại bỏ bazơ 5mC, và thay thế bằng C, thông qua cơ chế sửa chữa DNA.
HIF (yếu tố tăng trưởng thiếu oxy) là một yếu tố phiên mã đóng vai trò then chốt trong việc thích nghi tế bào với sự thay đổi độ cung cấp oxy. Khi có oxy, HIF được nhắm mục tiêu phá huỷ bởi một phức hợp ubiquitin E3 chứa protein ức chế khối u von Hippel–Lindau (pVHL). Chúng tôi đã phát hiện rằng pVHL của người liên kết với một đoạn peptide bắt nguồn từ HIF khi đoạn trung gian này có một dư lượng proline bảo tồn được hydroxyl hoá. Do quá trình hydroxyl hoá proline đòi hỏi oxy phân tử và ion Fe 2+ , sự biến đổi protein này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc nhận biết oxy ở động vật có vú.
Hội chứng hô hấp cấp tính do virus SARS-CoV-2 lần đầu bùng phát vào năm 2019 và lan truyền trên toàn thế giới. Chloroquine đã được sử dụng một cách không đồng nhất trong điều trị nhiễm SARS-CoV-2. Hydroxychloroquine có cơ chế hoạt động giống với chloroquine, nhưng tính an toàn cao hơn khiến nó trở thành lựa chọn ưu tiên để điều trị sốt rét và các bệnh tự miễn dịch. Chúng tôi đề xuất rằng tác dụng điều hòa miễn dịch của hydroxychloroquine cũng có thể hữu ích trong việc kiểm soát bão cytokine xảy ra ở giai đoạn muộn trong các bệnh nhân SARS-CoV-2 nặng. Hiện tại, không có bằng chứng để ủng hộ việc sử dụng hydroxychloroquine trong nhiễm SARS-CoV-2.
Hoạt động dược lý của chloroquine và hydroxychloroquine được thử nghiệm sử dụng các tế bào Vero bị nhiễm SARS-CoV-2. Các mô hình dược động học dựa trên sinh lý (PBPK) đã được triển khai cho cả hai loại thuốc riêng biệt bằng cách tích hợp dữ liệu trong ống nghiệm của chúng. Sử dụng các mô hình PBPK, nồng độ hydroxychloroquine trong dịch phổi đã được mô phỏng với 5 chế độ liều khác nhau để khám phá chế độ hiệu quả nhất trong khi xem xét đến tính an toàn của thuốc.
Hydroxychloroquine (EC50 = 0.72 μM) được xác định là có hoạt tính mạnh hơn chloroquine (EC50 = 5.47 μM) trong ống nghiệm. Dựa trên kết quả mô hình PBPK, một liều tải 400 mg dùng hai lần mỗi ngày của hydroxychloroquine sulfate dùng bằng đường uống, sau đó là liều duy trì 200 mg dùng hai lần mỗi ngày trong 4 ngày được khuyến nghị cho nhiễm SARS-CoV-2, vì nó đạt được hoạt tính gấp 3 lần so với chloroquine phosphate khi dùng 500 mg hai lần mỗi ngày trước 5 ngày.
Hydroxychloroquine được xác nhận có hoạt tính mạnh hơn chloroquine trong việc ức chế SARS-CoV-2 trong ống nghiệm.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10