Journal of Leukocyte Biology

SCIE-ISI SCOPUS (1984-2023)

  0741-5400

  1938-3673

  Mỹ

Cơ quản chủ quản:  OXFORD UNIV PRESS , John Wiley & Sons Inc.

Lĩnh vực:
Cell BiologyImmunologyImmunology and Allergy

Các bài báo tiêu biểu

Interferon-γ: an overview of signals, mechanisms and functions
Tập 75 Số 2 - Trang 163-189 - 2004
Kate Schroder, Paul J. Hertzog, Timothy Ravasi, David Hume
Abstract

Interferon-γ (IFN-γ) coordinates a diverse array of cellular programs through transcriptional regulation of immunologically relevant genes. This article reviews the current understanding of IFN-γ ligand, receptor, ignal transduction, and cellular effects with a focus on macrophage responses and to a lesser extent, responses from other cell types that influence macrophage function during infection. The current model for IFN-γ signal transduction is discussed, as well as signal regulation and factors conferring signal specificity. Cellular effects of IFN-γ are described, including up-regulation of pathogen recognition, antigen processing and presentation, the antiviral state, inhibition of cellular proliferation and effects on apoptosis, activation of microbicidal effector functions, immunomodulation, and leukocyte trafficking. In addition, integration of signaling and response with other cytokines and pathogen-associated molecular patterns, such as tumor necrosis factor-α, interleukin-4, type I IFNs, and lipopolysaccharide are discussed.

DAMPs, PAMPs và alarmins: tất cả những gì chúng ta cần biết về sự nguy hiểm Dịch bởi AI
Tập 81 Số 1 - Trang 1-5 - 2007
Marco E. Bianchi
Tóm tắt

Động vật đa bào phát hiện các tác nhân gây bệnh thông qua một loạt các thụ thể nhận biết các mẫu phân tử liên kết với tác nhân gây bệnh (PAMPs). Tuy nhiên, tác nhân gây bệnh không phải là tác nhân duy nhất gây ra tổn thương mô và tế bào: chấn thương cũng là một yếu tố. Bằng chứng đang gia tăng cho thấy chấn thương và tổn thương mô liên quan được nhận biết ở cấp độ tế bào thông qua việc phát hiện các protein trong tế bào được phóng thích bởi các tế bào chết thông qua các thụ thể. Thuật ngữ “alarmin” được đề xuất để phân loại những phân tử nội sinh này báo hiệu tổn thương mô và tế bào. Thú vị thay, các tế bào tác động của miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch thích ứng có thể tiết ra alarmins thông qua các con đường không cổ điển và thường làm như vậy khi chúng được kích hoạt bởi PAMPs hoặc các alarmins khác. Do đó, alarmins nội sinh và PAMPs bên ngoài truyền tải một thông điệp tương tự và tạo ra các phản ứng tương tự; chúng có thể được coi là các nhóm con của một tập hợp lớn hơn, các mẫu phân tử liên quan đến tổn thương (DAMPs).

The many faces of macrophage activation
Tập 73 Số 2 - Trang 209-212 - 2003
David M. Mosser
CD40-CD40 ligand Dịch bởi AI
Tập 67 Số 1 - Trang 2-17 - 2000
Cees van Kooten, Jacques Banchereau
Tóm tắt

CD40 là một thụ thể bề mặt tế bào thuộc họ thụ thể yếu tố hoại tử khối u-R (TNF-R), lần đầu tiên được xác định và đặc trưng chức năng trên các tế bào lympho B. Vai trò quan trọng của nó trong các đáp ứng miễn dịch dịch thể phụ thuộc tế bào T đã được chứng minh qua các bệnh nhân mắc hội chứng hyper-IgM, cũng như thông qua cách nhắm mục tiêu gen ở chuột. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, rõ ràng rằng CD40 được biểu hiện rộng rãi hơn nhiều, bao gồm cả sự biểu hiện trên các tế bào đơn nhân, tế bào trình diện kháng nguyên, tế bào nội mô và tế bào biểu mô. Ngoài ra, ligand CD40 (CD40-L/CD154), một thành viên của gia đình TNF, cũng được biểu hiện rộng rãi hơn so với chỉ các tế bào T CD4+ đã được kích hoạt. Do đó, hiện nay người ta nghĩ rằng các tương tác giữa CD40-CD40-L đóng vai trò tổng quát hơn trong việc điều chỉnh miễn dịch. Tập hợp các nghiên cứu này đã culminated trong các nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng đang được tiến hành. Bài báo này tổng hợp những phát triển gần đây trong lĩnh vực nghiên cứu này, với trọng tâm chính vào (1) cấu trúc và sự biểu hiện của CD40 và ligand của nó; (2) sự truyền tín hiệu của CD40; (3) chức năng in vitro của CD40 trên các loại tế bào khác nhau; và (4) chức năng in vivo của các tương tác CD40/CD40-L. J. Leukoc. Biol. 67: 2–17; 2000.

Sử dụng kháng thể đơn dòng đặc hiệu Ly6G để loại bỏ bạch cầu trung tính ở chuột Dịch bởi AI
Tập 83 Số 1 - Trang 64-70 - 2008
Jean M. Daley, Alan Thomay, Michael D. Connolly, Jonathan S. Reichner, Jorge E. Albina
Tóm tắt

Kháng thể đơn dòng kháng bạch cầu (Gr-1) RB6-8C5 đã được sử dụng rộng rãi để loại bỏ bạch cầu trung tính ở chuột và để nghiên cứu vai trò của các tế bào này trong cơ chế phòng thủ của cơ thể. RB6-8C5 gắn vào Ly6G, có mặt trên bạch cầu trung tính, và cả Ly6C, được biểu hiện trên bạch cầu trung tính, tế bào đuôi gai và các phân nhóm của tế bào lympho và mono. Do đó, việc sử dụng RB6-8C5 trong điều trị có thể không chỉ làm giảm bạch cầu trung tính mà còn ảnh hưởng đến các tế bào Gr-1+ (Ly6C+) khác. Nghiên cứu này mô tả việc sử dụng một kháng thể đơn dòng đặc hiệu Ly6G, 1A8, như một phương pháp thay thế để loại bỏ bạch cầu trung tính. Việc sử dụng RB6-8C5 giảm số lượng bạch cầu trung tính và mono Gr-1+ trong máu, trong khi việc sử dụng 1A8 chỉ làm giảm số lượng bạch cầu trung tính mà không làm giảm mono Gr-1+. Nồng độ TNF-α huyết tương trong tình trạng nhiễm độc đã tăng 20 lần do điều trị bằng RB6-8C5 và gấp bốn lần do điều trị bằng 1A8. Trong mô hình vết thương, việc điều trị trước bằng một trong hai kháng thể đều làm giảm số lượng bạch cầu trung tính và đại thực bào trong vết thương. Sự nhuộm TNF-α trong bạch cầu vết thương được điều trị với brefeldin đã tăng lên do điều trị trước bằng RB6-8C5, nhưng không phải 1A8. Việc loại bỏ bạch cầu trung tính bằng 1A8 tạo ra những lợi thế so với việc sử dụng RB6-8C5, vì nó bảo tồn các tế bào Gr-1+ không phải bạch cầu trung tính, bị loại bỏ bởi kháng thể kháng Gr-1. Sự mất mát các quần thể Gr-1+ không phải bạch cầu trung tính ở những động vật được điều trị bằng RB6-8C5 có liên quan đến sự gia tăng phản ứng TNF-α, cho thấy các tế bào này có thể có chức năng ức chế việc sản xuất TNF-α.

Phân Tích Hoạt Động Bùng Nổ Hô Hấp Trong Tế Bào Phagocyte Bằng Hydroethidine Và 2′,7′-Dichlorofluorescin Dịch bởi AI
Tập 47 Số 5 - Trang 440-448 - 1990
G. Rothe, G. Valet
Hydroethidine (HE) và 2′,7′-dichlorofluorescin (DCFH) đã được sử dụng để đo lường các sản phẩm chuyển hóa oxy phản ứng trong bạch cầu bằng phương pháp phân tích dòng tế bào. Cả Hydroethidine và DCFH đều bị oxy hóa nhanh chóng trong một thử nghiệm ống nghiệm không tế bào thành bromide ethidium (EB) và 2′,7′-dichlorofluorescein (DCF) bởi H2O2 và peroxidase, nhưng không bởi H2O2 một mình, trong khi chỉ HE bị oxy hóa bởi KO2, một nguồn O-2. Các bạch cầu lympho, đơn nhân và bạch cầu đa nhân trung tính nghỉ ngơi tự phát oxy hóa HE thành EB, trong khi DCFH chỉ bị oxy hóa ở mức thấp. Bạch cầu đa nhân trung tính tăng lên 6,9 lần về độ phát quang đỏ của EB và 12,5 lần về độ phát quang xanh của DCF trong quá trình bùng nổ hô hấp được kích thích bởi phorbol 12-myristate 13-acetate hoặc 6,1 lần và 4,7 lần, tương ứng, trong quá trình bùng nổ hô hấp được kích thích bởi vi khuẩn Escherichia coli. Oxy hóa HE hoặc DCFH trong quá trình bùng nổ hô hấp, không giống như oxy hóa HE tự phát, không bị ức chế bởi 10 mM NaN, cho thấy nguồn gốc không phải ti thể của các chất ôxy hóa tế bào trong quá trình bùng nổ hô hấp, chẳng hạn như NADPH oxidase, là chất sản xuất O-2. Oxy hóa DCFH, nhưng không phải HE, đã giảm trong các bạch cầu đa nhân trung tính được kích thích, những tế bào này đồng thời được nạp HE và DCFH. Oxy hóa DCFH nội bào do sự ủ của bạch cầu đa nhân trung tính nghỉ ngơi với H2O2 ngoại bào không bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của HE. Điều này cho thấy rằng HE bị oxy hóa ở một bước sớm hơn trong chuyển hóa oxy phản ứng của bạch cầu đa nhân trung tính so với DCFH, tức là, bởi các sản phẩm chuyển hóa oxy sớm như O2-, trong khi DCFH phần nào bị oxy hóa bởi H2O2 và peroxidase trong phago. Việc oxy hóa khác nhau giữa HE và DCFH trong quá trình nhuộm tế bào đồng thời cho phép phân tích tối đa ba quần thể bạch cầu đa nhân trung tính khác nhau về chức năng ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết. Điều này có ý nghĩa cho việc xác định các thay đổi liên quan đến bệnh trong chuyển hóa oxy ở bạch cầu nghỉ ngơi và được kích thích.
Tác động của pH ngoại bào lên chức năng miễn dịch Dịch bởi AI
Tập 69 Số 4 - Trang 522-530 - 2001
A.L. Lardner
Tóm tắt

Bài báo này xem xét tác động của sự thay đổi pH ngoại bào đến chức năng miễn dịch tế bào và miễn dịch thể dịch. Do pH acid chiếm ưu thế tại các vị trí viêm và các khu vực hoạt động miễn dịch khác, phần lớn các nghiên cứu đến nay tập trung vào tác động của pH acid hơn là pH kiềm. Các cuộc điều tra về bạch cầu đa nhân cho thấy chủ yếu sự ức chế hoạt động hóa hướng động, hoạt động hô hấp và khả năng diệt khuẩn ở pH thấp. Bằng chứng cho thấy sự suy giảm khả năng độc tế bào và sự phát triển của tế bào lympho ở pH acid cũng đang bắt đầu xuất hiện. Nhiều trường hợp nhiễm toan lâm sàng cũng đi kèm với suy giảm miễn dịch. Các nghiên cứu về đại thực bào và bạch cầu ưa acid thì ít ỏi và chưa có kết luận rõ ràng. Một số ít nghiên cứu cho thấy sự kích hoạt protein bổ thể do acid và con đường bổ thể thay thế, cùng với việc tăng cường gắn kết kháng thể với bạch cầu ở pH thấp. Do đó, có thể tồn tại một tác động khác nhau của pH acid lên miễn dịch thể dịch và miễn dịch tế bào. Việc tăng cường nhận thức về ý nghĩa của pH ngoại bào liên quan đến chức năng miễn dịch đòi hỏi phải tiến hành thêm nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực hiện tại còn thiếu sót nhưng đầy hứa hẹn này.

Mig và IP-10: Các chemokine CXC nhắm mục tiêu vào tế bào lympho Dịch bởi AI
Tập 61 Số 3 - Trang 246-257 - 1997
Joshua Μ. Farber
Abstract

Mig và IP-10 là các thành viên có liên quan trong tiểu loại CXC trong họ chemokine của các cytokine. Mig ở chuột (MuMig), IP-10 ở người, và đồng đẳng của IP-10 ở chuột, Crg-2, đều được xác định do sự gia tăng mạnh mẽ về gen của chúng trong các tế bào monocytic được điều trị bằng interferon-γ (IFN-γ). Các nghiên cứu sử dụng protein người tái tổ hợp (r) cho thấy rằng, khác với hầu hết các chemokine CXC khác, rHuMig và rIP-10 không có hoạt tính trên các tế bào bạch cầu trung tính mà dường như nhắm mục tiêu cụ thể vào các tế bào lympho. rHuMig và rIP-10 hoạt động như các yếu tố hướng động đối với các tế bào T được kích thích, nhưng không đối với các tế bào T đang nghỉ ngơi. Các nghiên cứu được thực hiện trong ống nghiệm và trong cơ thể sống đã chỉ ra rằng rHuMig và rIP-10 chia sẻ các hoạt động bổ sung, bao gồm ức chế tạo mạch mới, ức chế các tế bào gốc huyết học, và tác dụng chống u. rHuMig và rIP-10 cho thấy hiệu ứng desensitization tương hỗ trên các tế bào T đã được kích hoạt và đã được chứng minh là chia sẻ một thụ thể, CXCR3. Các gen cho cả MuMig và Crg-2 được biểu hiện cao trong nhiều mô trong suốt các nhiễm virut và đơn bào thí nghiệm ở chuột, nhưng các kiểu biểu hiện của chúng khác nhau. Điều này gợi ý rằng các Migs và IP-10/Crg-2 có thể đóng vai trò trong phòng vệ của chủ thể và rằng, mặc dù hoạt động tương tự của chúng được đo trong ống nghiệm, Mig và IP-10/Crg-2 có thể đảm nhận các chức năng không thay thế trong cơ thể sống.

Sự ức chế quá trình apoptosis và kéo dài tuổi thọ chức năng của bạch cầu trung tính bởi các yếu tố trung gian viêm Dịch bởi AI
Tập 54 Số 4 - Trang 283-288 - 1993
Alison Lee, Moira K. B. Whyte, Christopher Haslett
Tóm tắt

Quá trình apoptosis của bạch cầu trung tính dẫn đến sự hấp thu các bạch cầu trung tính lão hóa nguyên vẹn bởi đại thực bào. Điều này có thể đại diện cho một cơ chế loại bỏ bạch cầu trung tính quan trọng cả trong việc kiểm soát tổn thương mô viêm và cho các quá trình hồi phục bình thường của viêm. Bởi vì hiện tượng apoptosis được coi là một quá trình kiểm soát chính trong cân bằng tế bào và mô, một số trung gian viêm đã được thử nghiệm để đánh giá khả năng điều chỉnh tỷ lệ apoptosis trong các quần thể bạch cầu trung tính lão hóa trong nuôi cấy. Lipopolysaccharide nội độc, yếu tố bổ sung tái tổ hợp nhân loại 5a, và yếu tố kích thích tạo koloni bạch cầu trung tính-đại thực bào tái tổ hợp nhân loại đều ức chế rõ rệt tỷ lệ apoptosis của bạch cầu trung tính theo kiểu phụ thuộc vào nồng độ, mà không gây ra hoại tử (được đánh giá bằng phép thử loại trừ trypan blue). Hiệu ứng ức chế này đối với tỷ lệ apoptosis của bạch cầu trung tính được thể hiện qua các tiêu chí hình thái học và được xác nhận bởi điện di gel của DNA đã được chiết xuất. Việc ức chế apoptosis của các quần thể bạch cầu trung tính lão hóa được liên kết với việc kéo dài tuổi thọ chức năng của quần thể, được đánh giá bởi khả năng của bạch cầu trung tính trong việc lan rộng trên bề mặt kính, phân cực phản ứng với kích thích có chủ đích bằng N-formyl-Met-Leu-Phe (fMLP), và thải ra enzyme đánh dấu hạt myeloperoxidase khi kích thích bằng fMLP. Những quan sát này cho thấy các trung gian viêm kéo dài tuổi thọ chức năng của bạch cầu trung tính thông qua việc điều chỉnh apoptosis. Việc làm sáng tỏ thêm về các cơ chế này sẽ dẫn đến một sự hiểu biết tốt hơn về các quá trình kiểm soát sự cư trú và chức năng của bạch cầu trung tính trong các mô bị viêm và có thể cung cấp thêm thông tin về các cơ chế phân tử của hiện tượng apoptosis, điều này có tầm quan trọng rộng rãi trong sinh học mô.

#bạch cầu trung tính #apoptosis #đại thực bào #trung gian viêm #tổn thương mô viêm
Phát hiện hydro peroxide nội bào và anion superoxide trong tế bào nội mô Dịch bởi AI
Tập 55 Số 2 - Trang 253-258 - 1994
Wayne O. Carter, Padma Kumar Naryanan, J. Paul Robinson
Một trong những mục tiêu của việc nghiên cứu tế bào nội mô in vitro là đánh giá các tương tác giữa bạch cầu trung tính và tế bào nội mô, bao gồm những hậu quả tiềm tàng của tổn thương do chất oxy hóa gây ra cho tế bào nội mô. Hiện tại, hiểu biết về chức năng oxy hóa của tế bào nội mô chủ yếu được rút ra từ việc đo lường các sản phẩm ngoại bào. Chúng tôi đã sử dụng 2 phẩm nhuộm, 2′,7′-dichlorofluorescin diacetate (DGFH-DA) và hydroethidine (HE), để đo hydro peroxide (H2O2) và anion superoxide (O2-) tương ứng, nhằm đánh giá khả năng theo dõi các cơ chế oxy hóa trong tế bào nội mô và cung cấp một phương pháp đáng tin cậy để đo lường các chất oxy hóa nội bào. Các tế bào nội mô được nhuộm với DCFH-DA và kích thích bằng H2O2 cho thấy sự gia tăng sản phẩm huỳnh quang 2′,7′-dichlorofluorescein (DCF) (đo lường H2O2 nội bào) đạt đỉnh ở 10 phút. Các tế bào nội mô được nhuộm với HE và kích thích bằng H2O2 cho thấy sự gia tăng sản phẩm huỳnh quang ethidium bromide (EB) (đo lường O2- nội bào) kéo dài khoảng 60 phút. Superoxide dismutase làm tăng huỳnh quang DCF ở các tế bào nội mô được kích thích bằng H2O2 lên 158%. Allopurinol (chất ức chế xanthine oxidase) làm giảm huỳnh quang DCF và EB lần lượt 48% và 37% trong các tế bào nội mô được kích thích bằng H2O2. Catalase hoàn toàn ức chế sự gia tăng huỳnh quang DCF hoặc EB ở các tế bào nội mô được kích thích bằng H2O2. Có một mối tương quan trực tiếp giữa cường độ huỳnh quang DCF và EB trung bình và nồng độ H2O2 hoặc số lượng bạch cầu trung tính được kích thích với phorbol 12-myristate 13-acetate thêm vào tế bào nội mô. Chúng tôi kết luận từ các nghiên cứu này rằng DCFH-DA và HE có thể được sử dụng để đo H2O2 và O2- nội bào trong tế bào nội mô và rằng con đường xanthine oxidase cho việc sản xuất O2- nội bào chiếm khoảng 40% tổng số O2- nội bào được tạo ra trong tế bào nội mô sau khi được kích thích với H2O2. Sự kết hợp giữa cytometry hình ảnh và cytometry dòng chảy sẽ rất quan trọng cho các đánh giá trong tương lai về chức năng của tế bào nội mô.