Phỏng vấn Thần kinh Tâm thần Quốc tế Mini (MINI). Một phỏng vấn chẩn đoán có cấu trúc ngắn gọn: độ tin cậy và tính hợp lệ theo CIDI Dịch bởi AI Tập 12 Số 5 - Trang 224-231 - 1997
Y. Lecrubier, David V. Sheehan, Emmanuelle Weiller, Patrícia Brandão Amorim, I. Bonora, Kathy H. Sheehan, Juris Janavs, G. C. Dunbar
Tóm tắtPhỏng vấn Thần kinh Tâm thần Quốc tế Mini (MINI) là một phỏng vấn chẩn đoán có cấu trúc ngắn gọn (DSI) được phát triển tại Pháp và Hoa Kỳ nhằm khám phá 17 rối loạn theo tiêu chí chẩn đoán của Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê Các rối loạn Tâm thần (DSM)-III-R. Nó được cấu trúc hoàn toàn để cho phép các người phỏng vấn không chuyên thực hiện. Để giữ cho phỏng vấn ngắn gọn, MINI tập trung vào sự tồn tại của các rối loạn hiện tại. Đối với mỗi rối loạn, một hoặc hai câu hỏi sàng lọc loại bỏ chẩn đoán khi được trả lời một cách tiêu cực. Các câu hỏi về mức độ nghiêm trọng, tàn tật hoặc triệu chứng giải thích bằng y tế không được khám phá triệu chứng từng cái một. Hai tài liệu chung trình bày độ tin cậy giữa các người phỏng vấn và độ chính xác lại của MINI so với Phỏng vấn Chẩn đoán Quốc tế Tổng hợp (CIDI) (bài báo này) và Phỏng vấn Lâm sàng Có cấu trúc cho bệnh nhân DSM-III-R (SCID) (tài liệu chung). Ba trăm bốn mươi sáu bệnh nhân (296 tâm thần và 50 không tâm thần) đã được phỏng vấn bằng MINI và CIDI ‘tiêu chuẩn vàng’. Bốn mươi hai người được phỏng vấn bởi hai nhà điều tra và 42 người được phỏng vấn ngay sau đó trong vòng hai ngày. Các người phỏng vấn đã được đào tạo để sử dụng cả hai công cụ này. Thời gian trung bình của cuộc phỏng vấn là 21 phút với MINI và 92 phút cho các phần tương ứng của CIDI. Hệ số kappa, độ nhạy và độ đặc hiệu đều tốt hoặc rất tốt cho tất cả chẩn đoán ngoại trừ rối loạn lo âu tổng quát (GAD) (kappa = 0.36), lo âu không gian (độ nhạy = 0.59) và chứng ăn uống bulimia (kappa = 0.53). Độ tin cậy giữa các người chấm và độ chính xác lại đều tốt. Những lý do chính cho sự không đồng nhất đã được xác định. MINI đã cung cấp các chẩn đoán DSM-III-R đáng tin cậy trong một khoảng thời gian ngắn, và nghiên cứu cho phép cải tiến trong việc định hình cho GAD và lo âu không gian trong phiên bản DSM-IV hiện tại của MINI.
Bản Tuyên Bố Đồng Thuận Cập Nhật Châu Âu về Chẩn Đoán và Điều Trị ADHD ở Người Lớn Dịch bởi AI Tập 56 Số 1 - Trang 14-34 - 2019
J. J. Sandra Kooij, Denise Bijlenga, Luana Salerno, Rafał Jaeschke, István Bitter, Judit Balázs, Johannes Thome, Geert Dom, Siegfried Kasper, Carlos N. Filipe, Steven Stes, Pavel Mohr, Sami Leppämäki, Miguel Casas, Julio Bobes, Jane McCarthy, Vanesa Richarte, Alexandra Philipsen, Artemios Pehlivanidis, Asko Niemelä, B. Styr, Bengi Semerci, Blanca Bolea-Alamañac, Dan Edvinsson, Dieter Baeyens, Dora Wynchank, Esther Sobanski, Fiona McNicholas, Hervé Caci, I. Mihailescu, Iris Manor, Iuliana Dobrescu, Takuya Saito, J. Krause, John Fayyad, Josep Antoni Ramos‐Quiroga, Karin Foeken, Florina Rad, Marios Adamou, Martin D. Ohlmeier, Michael Fitzgerald, Michael Gill, Michael B. Lensing, Nahit Motavallı Mukaddes, Paweł Brudkiewicz, Peik Gustafsson, Pekka Tani, P. Oswald, P.J. Carpentier, Pietro De Rossi, Richard Delorme, Silvana Simoska, Stefano Pallanti, Susan Young, Susanne Bejerot, Tuula Lehtonen, James Kustow, Ulrich Müller-Sedgwick, Tatja Hirvikoski, Valentino Antonio Pironti, Ylva Ginsberg, Zsolt Félegyházy, María Paz García‐Portilla, Philip Asherson
Tóm tắtNền tảng Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất ở trẻ em, thường kéo dài đến tuổi trưởng thành và tuổi già. Tuy nhiên, ADHD hiện đang bị thiếu chẩn đoán và điều trị ở nhiều nước châu Âu, dẫn đến tình trạng triệu chứng mãn tính và suy giảm do thiếu hoặc điều trị không hiệu quả, cũng như chi phí điều trị cao.Phương pháp Mạng lưới ADHD ở người lớn Châu Âu và Phân đoạn Rối loạn Phát triển Thần kinh xuyên suốt Cuộc sống (NDAL) của Hiệp hội Tâm thần học Châu Âu (EPA), nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức về ADHD ở người lớn trong và ngoài châu Âu. Bản Tuyên Bố Đồng Thuận Cập Nhật Châu Âu này hướng đến việc hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng bằng những chứng cứ nghiên cứu và kinh nghiệm lâm sàng từ 63 chuyên gia của các nước châu Âu cũng như các quốc gia khác, nơi ADHD ở người lớn được công nhận và điều trị.
#Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) #chẩn đoán #điều trị #người lớn #đồng thuận châu Âu.
Mối quan hệ giữa sự bốc đồng và nghiện Internet ở một mẫu thanh thiếu niên Trung Quốc Dịch bởi AI Tập 22 Số 7 - Trang 466-471 - 2007
Fenglin Cao, Linyan Su, Tieqiao Liu, Xueping Gao
Tóm tắtMục tiêuCác nghiên cứu trước đây về nghiện Internet đã điều tra những biến số tâm lý liên quan như sự nhút nhát, cảm giác cô đơn, sự tự ý thức, lo âu, trầm cảm và các mối quan hệ giữa các cá nhân. Ít nghiên cứu về mối quan hệ giữa nghiện Internet và sự bốc đồng đã được thực hiện. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá xem có mối liên hệ nào giữa nghiện Internet và sự bốc đồng trong số thanh thiếu niên Trung Quốc.Phương phápNghiên cứu này được thực hiện qua hai giai đoạn. Chúng tôi đã sàng lọc sự hiện diện của nghiện Internet ở 2620 học sinh trung học (tuổi từ 12 đến 18) từ bốn trường trung học phổ thông tại thành phố Trường Sa bằng cách sử dụng Bảng hỏi Chẩn đoán Nghiện Internet (YDQ). Theo tiêu chí YDQ đã được điều chỉnh của Beard, 64 học sinh đã được chẩn đoán là nghiện Internet. Loại trừ các rối loạn tâm thần đồng mắc hiện tại, 50 học sinh được chẩn đoán là nghiện Internet (tuổi trung bình, 14.8 ± 1.4) và 50 học sinh bình thường trong việc sử dụng Internet (tuổi trung bình, 14.5 ± 1.8) đã được đưa vào nghiên cứu trường hợp đối chứng. Hai nhóm được đánh giá bằng Thang đo Sự bốc đồng Barratt 11 (BIS-11) và thước đo hành vi về sự bốc đồng (Paradigm Bốc đồng GoStop).Kết quảSáu mươi bốn học sinh đáp ứng tiêu chí YDQ đã được điều chỉnh của Beard, trong đó có 14 học sinh mắc các rối loạn tâm thần đồng mắc, đặc biệt là đồng mắc ADHD. Nhóm nghiện Internet có điểm số trên các thang phụ của BIS-11 về Khả năng chú ý, Khả năng vận động, và Tổng điểm cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (P < 0.05). Nhóm nghiện Internet cũng có điểm cao hơn nhóm đối chứng về việc không khống chế được phản ứng trong Paradigm Bốc đồng GoStop (P < 0.05). Có sự tương quan dương tính đáng kể giữa điểm YDQ và các thang phụ của BIS-11 cũng như số lượng không khống chế được phản ứng của Paradigm Bốc đồng GoStop.Kết luậnNghiên cứu này gợi ý rằng thanh thiếu niên mắc nghiện Internet thể hiện sự bốc đồng nhiều hơn so với nhóm đối chứng và có nhiều rối loạn tâm thần đồng mắc khác nhau, điều này có thể liên quan đến tâm lý học của nghiện Internet.
Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp về các nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh chuyển giới Dịch bởi AI Tập 30 Số 6 - Trang 807-815 - 2015
Jon Arcelus, Walter Pierre Bouman, Wim Van Den Noortgate, Laurence Claes, Gemma L. Witcomb, Fernando Fernández‐Aranda
Tóm tắtNền tảngTrong 50 năm qua, một số nghiên cứu đã cung cấp ước tính về tỷ lệ mắc bệnh chuyển giới. Sự biến thiên trong các tỷ lệ đã báo cáo là đáng kể và có thể được giải thích bởi các yếu tố như phương pháp và phân loại chẩn đoán sử dụng cũng như năm và quốc gia mà các nghiên cứu được thực hiện. Xem xét những điều này, nghiên cứu này nhằm xem xét một cách chặt chẽ và hệ thống tài liệu hiện có về việc đo lường tỷ lệ mắc bệnh chuyển giới cũng như thực hiện một phân tích tổng hợp dựa trên dữ liệu có sẵn.Phương phápCác cơ sở dữ liệu đã được tìm kiếm một cách có hệ thống và 1473 nghiên cứu khả thi đã được xác định. Sau khi xem xét ban đầu tiêu đề bài báo và loại bỏ những bài không liên quan, 250 nghiên cứu đã được lựa chọn để đánh giá thêm. Trong số này, 211 nghiên cứu đã bị loại sau khi đọc tóm tắt và thêm 18 nghiên cứu nữa sau khi đọc toàn bộ bài báo. Kết quả là có 21 nghiên cứu để thực hiện đánh giá hệ thống, trong đó chỉ có 12 nghiên cứu có đủ dữ liệu cho phân tích tổng hợp. Dữ liệu chính từ các nghiên cứu dịch tễ học đã được trích xuất dưới dạng số thô. Kích thước tác động tổng hợp, có trọng số theo kích thước mẫu, đã được tính toán để cung cấp kích thước tác động tổng thể qua các nghiên cứu. Tỷ lệ rủi ro và khoảng tin cậy 95% (CIs) đã được tính toán. Đóng góp tương đối có trọng số của mỗi nghiên cứu cũng đã được đánh giá.Kết quảTỷ lệ mắc bệnh chuyển giới tổng hợp qua phân tích tổng hợp là 4,6 trên 100.000 cá nhân; 6,8 cho phụ nữ chuyển giới và 2,6 cho nam giới chuyển giới. Phân tích theo thời gian cho thấy có sự gia tăng trong tỷ lệ mắc bệnh đã báo cáo trong 50 năm qua.Kết luậnTỷ lệ mắc bệnh chuyển giới tổng thể được báo cáo trong tài liệu đang tăng lên. Tuy nhiên, nó vẫn còn rất thấp và chủ yếu dựa trên những cá nhân đến các dịch vụ lâm sàng, vì vậy không cung cấp một bức tranh tổng thể về tỷ lệ trong dân số chung. Tuy nhiên, nghiên cứu này nên được coi là một điểm khởi đầu và lĩnh vực này sẽ được hưởng lợi từ các nghiên cứu dịch tễ học chặt chẽ hơn, công nhận những thay đổi hiện tại trong hệ thống phân loại và bao gồm các địa điểm khác nhau trên toàn cầu.
Sử Dụng Internet, Sự Xuất Hiện Tràn Ngập Trên Facebook và Trầm Cảm: Kết Quả của Một Nghiên Cứu Cắt Ngàng Dịch bởi AI Tập 30 Số 6 - Trang 681-684 - 2015
Agata Błachnio, Aneta Przepiórka, Igor Pantić
Tóm TắtFacebook đã trở thành một nền tảng mạng xã hội rất phổ biến ngày nay, đặc biệt là trong giới thanh thiếu niên và người trẻ tuổi, đã làm thay đổi sâu sắc cách thức giao tiếp và tương tác của họ. Tuy nhiên, một số báo cáo đã chỉ ra rằng việc sử dụng Facebook quá mức có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm thần và liên quan đến một số vấn đề tâm lý nhất định. Do những phát hiện trước đây về mối quan hệ giữa nghiện Facebook và trầm cảm không rõ ràng, đã cần phải có thêm các nghiên cứu. Mục tiêu chính của nghiên cứu của chúng tôi là kiểm tra các mối liên hệ tiềm năng giữa việc sử dụng Internet, trầm cảm và sự xuất hiện tràn ngập trên Facebook. Một tổng số 672 người dùng Facebook đã tham gia vào nghiên cứu cắt ngang này. Bộ câu hỏi về sự xuất hiện tràn ngập trên Facebook và Thang đo Trầm cảm của Trung tâm Nghiên cứu Dịch tễ học đã được sử dụng. Để thu thập dữ liệu, quy trình lấy mẫu tuyết lăn đã được áp dụng. Chúng tôi cho thấy rằng trầm cảm có thể là một yếu tố dự đoán sự xuất hiện tràn ngập trên Facebook. Các kết quả của chúng tôi cung cấp thêm bằng chứng rằng thời gian sử dụng Internet hàng ngày tính bằng phút, giới tính và độ tuổi cũng là những yếu tố dự đoán sự xuất hiện tràn ngập trên Facebook: rằng sự xuất hiện tràn ngập trên Facebook có thể được dự đoán bằng việc là nam giới, độ tuổi trẻ và số phút máy tính ghi nhận cao. Dựa trên nghiên cứu này, có thể kết luận rằng có những biến số nhân khẩu học nhất định, chẳng hạn như tuổi, giới tính, hoặc thời gian sử dụng trực tuyến - có thể giúp phác thảo hồ sơ của một người dùng có khả năng bị nghiện Facebook. Kiến thức này có thể phục vụ cho các mục đích phòng ngừa.
Các tập hợp trầm cảm - bằng chứng về vai trò nguyên nhân của các rối loạn lo âu nguyên phát? Dịch bởi AI Tập 18 Số 8 - Trang 384-393 - 2003
Hans‐Ulrich Wïttchen, Katja Beesdo‐Baum, Antje Bittner, Renée D. Goodwin
Tóm tắtCác rối loạn lo âu và trầm cảm là những rối loạn tâm thần phổ biến trong cộng đồng, gây gánh nặng to lớn cho cả những người bị ảnh hưởng và xã hội. Hơn nữa, tình trạng đồng mắc giữa các rối loạn lo âu và trầm cảm đạt tỷ lệ cao, dẫn đến suy giảm chức năng và khả năng vận động đáng kể. Các phát hiện đồng nhất cho thấy rằng các rối loạn lo âu thường giữ vai trò nguyên nhân trong đa số các trường hợp đồng mắc với trầm cảm. Tuy nhiên, câu hỏi liệu các rối loạn lo âu có phải là yếu tố nguy cơ gây ra trầm cảm hay thậm chí là yếu tố nguy cơ nguyên nhân cho sự khởi phát lần đầu của trầm cảm vẫn chưa được giải quyết. Các kết quả gần đây cho thấy các rối loạn lo âu làm tăng nguy cơ trầm cảm trong tương lai, và cũng ảnh hưởng đến quá trình của trầm cảm, dẫn đến tiên lượng kém hơn. Hơn nữa, một số kết quả cho thấy mối quan hệ liều–phản ứng trong việc cho thấy rằng số lượng các rối loạn lo âu cao hơn và mức độ suy giảm nghiêm trọng liên quan đến các rối loạn lo âu cũng làm tăng nguy cơ trầm cảm sau này. Mục tiêu của bài viết này là tổng hợp tài liệu gần đây, tóm tắt các ý nghĩa của những phát hiện trước đó và đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai liên quan đến các chiến lược phòng ngừa và can thiệp.
Rối loạn lưỡng cực, rối loạn tâm thần phân liệt và tâm thần phân liệt cảm xúc: khác biệt dịch tễ, lâm sàng và tiên lượng Dịch bởi AI Tập 16 Số 3 - Trang 167-172 - 2001
Antonio Benabarre, Eduard Vieta, Francesc Colom, Anabel Martínez‐Arán, María Reinares, Cristòbal Gastó
Tóm tắtGiá trị chẩn đoán và tình trạng loại rối loạn tâm thần phân liệt cảm xúc vẫn là một vấn đề gây tranh cãi. Nghiên cứu này được thực hiện để phân tích các biến số nhân khẩu học, lâm sàng và tiên lượng xác định giá trị của việc chẩn đoán rối loạn tâm thần phân liệt cảm xúc loại lưỡng cực. Chúng tôi đã phân tích và so sánh 138 bệnh nhân ngoại trú: 67 người mắc rối loạn lưỡng cực loại I, 34 người mắc rối loạn tâm thần phân liệt cảm xúc loại lưỡng cực và 37 người mắc tâm thần phân liệt. Tất cả đều được chẩn đoán theo các tiêu chí nghiên cứu và đánh giá theo Lịch trình Rối loạn Cảm xúc và Tâm thần phân liệt. Những bệnh nhân tâm thần phân liệt cảm xúc đơn cực đã bị loại trừ. Kết quả khẳng định rằng, từ góc độ nhân khẩu học, đặc điểm lâm sàng và tiên lượng, rối loạn tâm thần phân liệt cảm xúc loại lưỡng cực có thể được phân loại như một hình thái phenotyp ở một điểm trung gian giữa rối loạn lưỡng cực I và tâm thần phân liệt. Những kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi theo chiều dọc trong việc chẩn đoán và đánh giá các hội chứng loạn thần. Mặc dù các triệu chứng cắt ngang gần gũi hơn với phổ tâm thần phân liệt, nhưng diễn biến của bệnh lại có vẻ giống hơn với bệnh nhân lưỡng cực, dẫn đến một kết quả trung gian.
#rối loạn lưỡng cực #rối loạn tâm thần phân liệt #rối loạn tâm thần phân liệt cảm xúc #nhân khẩu học #tiên lượng
Bệnh Răng Miệng Liên Quan Đến Nguy Cơ Tương Lai Bệnh Sa Sút Trí Tuệ và Giảm Nhận Thức: Nghiên Cứu Cohort Tiềm Năng Dựa Trên Thử Nghiệm Hành Động Trong Bệnh Đái Tháo Đường và Bệnh Mạch Máu: Đánh Giá Kiểm Soát Thoát Hành Với Preterax và Diamicron Chế Phẩm Phóng Thích Được Điều Chỉnh (Advance) Dịch bởi AI Tập 28 Số 1 - Trang 49-52 - 2013
G. David Batty, Qing Li, Rachel Huxley, Sophia Zoungas, Beth A. Taylor, Bruce Neal, Bastiaan E. de Galan, Mark Woodward, Stephen Harrap, Stephen Colagiuri, Anushka Patel, John Chalmers
Tóm tắtMục tiêuKhám phá mối liên hệ giữa bệnh răng miệng với sự sa sút trí tuệ hoặc giảm nhận thức trong một nhóm người mắc bệnh tiểu đường type 2.Phương phápTổng cộng có 11.140 nam và nữ trong độ tuổi từ 55–88 tham gia vào cuộc nghiên cứu khi bắt đầu với bệnh tiểu đường type 2 đã thực hiện một cuộc kiểm tra y tế ban đầu, trong đó họ báo cáo số lượng răng tự nhiên và số ngày chảy máu lợi. Bệnh sa sút trí tuệ và giảm nhận thức được xác định định kỳ trong quá trình theo dõi 5 năm.Kết quảSo với nhóm có số lượng răng nhiều nhất (từ 22 răng trở lên), việc không có răng đã liên quan đến nguy cơ cao nhất đối với cả bệnh sa sút trí tuệ (tỷ lệ nguy cơ; khoảng tin cậy 95%: 1.48; 1.24, 1.78) và giảm nhận thức (1.39; 1.21, 1.59). Số ngày chảy máu lợi không có liên quan đến những kết quả này.Kết luậnViệc mất răng liên quan đến nguy cơ gia tăng đối với cả bệnh sa sút trí tuệ và giảm nhận thức.