Hô hấp ký là gì? Các công bố khoa học về Hô hấp ký

"Hô hấp ký" is a Vietnamese phrase that translates to "breathe in" in English. It is often used as a reminder to take deep breaths and relax in moments of stres...

"Hô hấp ký" is a Vietnamese phrase that translates to "breathe in" in English. It is often used as a reminder to take deep breaths and relax in moments of stress or tension.
Nhìn chung, việc hô hấp ký (breathe in) là một phương pháp hữu ích để giúp giảm căng thẳng, lo âu và cải thiện tâm trạng. Kỹ thuật này thường được sử dụng trong thiền, yoga và các phương pháp thư giãn khác. Khi thực hiện, bạn nên tập trung vào việc hít thở sâu, giữ và sau đó thở ra một cách dứt khoát. Việc tập trung vào hơi thở có thể giúp tinh thần bạn trở nên yên bình và tập trung hơn. Ngoài ra, thực hiện hô hấp kỹ cũng có thể giúp cải thiện sức khỏe nói chung bởi vì việc hít thở sâu giúp tăng cường tối đa lượng oxy lưu thông trong cơ thể.
Khi thực hiện hô hấp ký, việc chú ý đến nhịp thở và làm chậm lại nhịp thở có thể giúp tạo ra sự bình yên và thư thái cho tâm trí. Hô hấp kỹ cũng được coi là một phương pháp giúp kiểm soát căng thẳng, đặc biệt trong những tình huống căng thẳng, lo lắng hoặc khi đối mặt với trạng thái cảm xúc mạnh mẽ.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về cách thực hiện hô hấp ký và những lợi ích của việc thực hành kỹ thuật hô hấp này, bạn có thể tham khảo thêm thông tin từ sách, bài viết hoặc video hướng dẫn từ các chuyên gia về yoga, thiền và phương pháp thư giãn khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hô hấp ký":

Phương pháp xây dựng lược đồ chữ ký số mới dựa trên bài toán logarit kết hợp khai căn trên F_p
Bài báo đề xuất một phương pháp xây dựng lược đồ chữ ký dựa trên một bài toán khó mới, ở đây gọi là bài toán logarit kết hợp khai căn trên trường hữu hạn . Hiện tại, đây là bài toán khó thuộc lớp bài toán không giải được, ngoại trừ phương pháp “vét cạn”. Do đó, việc xây dựng lược đồ chữ ký số dựa trên tính khó của bài toán này nhiều khả năng sẽ cho phép nâng cao độ an toàn của thuật toán chữ ký số theo phương pháp mới đề xuất. Ngoài ra, phương pháp xây dựng lược đồ chữ ký ở đây có thể áp dụng để phát triển một lớp thuật toán chữ ký phù hợp với các ứng dụng yêu cầu cao về độ an toàn trong thực tế.
#Discrete logarithm problem (DLP); Digital signature algorithm; Digital signature schemes; Asymmetric - key cryptosystems.
Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1860 – 1945)
Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE Quá trình bóc lột thuộc địa của Pháp trong gần 100 năm thống trị đã làm cho nền kinh tế Nam Kỳ có những biến đổi sâu sắc. Để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa, Pháp đã xây dựng một hệ thống giao thông đa dạng với những phương tiện hiện đại ở khắp Nam Kỳ, nối các tỉnh Nam Kỳ với các vùng lân cận. Việc đầu tư xây dựng hệ thống giao thông ở Nam Kỳ đã tạo điều kiện thay đổi cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế và đem lại nguồn lợi lớn cho Pháp. /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#hệ thống giao thông ở Nam Kỳ #thời Pháp thuộc
KẾT QUẢ SẢN KHOA Ở THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ ĐẺ ĐỦ THÁNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: nhận xét kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ đẻ đủ tháng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2019-2020.Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐTK mổ đẻ (78,29%) cao hơn so với tỷ lệ đẻ thường. Các nguyên nhân ĐTĐTK đẻ mổ thường gặp là do nguyên nhân có tiền sử mổ cũ (32,03%), nguyên nhân do thai to chiếm 14,84%.Cân nặng sơ sinh trung bình của nhóm thai phụ ĐTĐTK đẻ đủ tháng là 3433 ± 442g. Có 12 trẻ có cân nặng từ 4000g trở lên, chiếm 7,05%. Phần lớn trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK không có biến chứng sau đẻ, chiếm tỷ lệ 81,64%. Có 4 trẻ bị hạ glucose máu (2,35%), 22 trẻ có bị vàng da sau sinh (12,94%). Tỷ lệ trẻ sơ sinh có chỉ số Apgar sau 1 phút và sau 5 phút <7 điểm chiếm tỷ lệ thấp (lần lượt là 2,94% và 1,18%).Kết luận: thai phụ ĐTĐTK có tỷ lệ mổ đẻ cao. Biến chứng ở trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK thường gặp là vàng da sau sinh, biến chứng ít gặp hơn là hạ glucose máu và suy hô hấp sau sinh.
#kết quả sản khoa #đái tháo đường thai kỳ #hạ đường máu #suy hô hấp sau sinh #vành da sau sinh
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp công nghệ và kỹ thuật nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ Kỳ II: Đánh giá hiệu quả của giải pháp duy trì áp suất vỉa, thực trạng khai thác của từng khu vực, tồn tại và nguyên nhân
Tạp chí Dầu khí - Tập 7 - Trang 18-34 - 2018
Trữ lượng dầu tầng móng Bạch Hổ thuộc nhóm cực lớn. Sau hơn 30 năm khai thác, đến nay trữ lượng thu hồi còn lại có khả năng khai thác của mỏ Bạch Hổ đang tồn tại trong: (i) các khe nứt, hang hốc chưa khai thác ở phần nóc của thân dầu; (ii) hệ thống khe nứt lớn (macro) thuộc phần giữa của thân dầu (dầu dư bão hòa - saturated oil residues chưa quét đẩy hết); (iii) đới vi nứt nẻ và nứt nẻ 1 chiều không liên thông; (iv) phần nóc móng nhô cao mà trước đây chưa xác định được và chưa mở vỉa; (v) những thể tích còn sót do chưa xác định chính xác đới nứt nẻ hoặc quỹ đạo khoan chưa đến được. Bơm ép nước cho đến nay là giải pháp hiệu quả nhất góp phần quan trọng tăng lưu lượng các giếng, ổn định tỷ số khí - dầu, nâng cao hệ số thu hồi dầu và đặc biệt là ổn định sản lượng dầu khai thác khối Trung tâm tầng móng Bạch Hổ. Tuy nhiên, bơm ép nước chỉ hiệu quả ở các khu vực kiến tạo dập vỡ mạnh, các đới nứt nẻ liên thông tốt, độ thấm tốt và sẽ không hiệu quả ở các khu vực mà cường độ hoạt động kiến tạo yếu, hoặc do thành phần thạch học mà mức độ dập vỡ đất đá thấp, các khe nứt ít liên thông, độ thấm kém. Bơm ép nước duy trì áp lực vỉa trên áp suất bão hòa cũng không phải hiệu quả ở tất cả các giai đoạn khai thác, đặc biệt đối với giai đoạn cuối cần điều chỉnh theo hướng giảm. Thách thức lớn nhất ở mỏ Bạch Hổ hiện nay là: độ ngập nước tăng nhanh kể cả các giếng chủ lực; ranh giới dầu - nước ở khối Trung tâm chỉ còn cách nóc móng xung quanh 100m, có nơi chỉ còn cách nóc móng 18m; hệ số thu hồi dầu của 2 khối Nam và Đông Bắc rất thấp, tương ứng là 1,9% và 1,3%; khai thác và nâng cao hệ số thu hồi dầu tầng móng từ các đới vi nứt nẻ vô cùng khó khăn. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích cấu trúc địa chất và kiến tạo của mỏ Bạch Hổ, thành phần thạch học và tính chất đá chứa, tính chất dầu vỉa, trữ lượng tầng móng, từ đó đánh giá thực trạng khai thác, đề xuất các giải pháp công nghệ, kỹ thuật cụ thể cho từng khu vực và đối tượng nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ. Trong Kỳ II, tác giả tập trung đánh giá hiệu quả của các giải pháp duy trì áp suất vỉa, thực trạng khai thác của từng khu vực và so sánh với Sơ đồ công nghệ, trong đó phân tích cụ thể các tồn tại và nguyên nhân. Trong phần này, tác giả đã sử dụng các tài liệu thực tế khai thác dầu tầng móng mỏ Bạch Hổ từ nguồn của Vietsovpetro.
#Improvement of oil recovery factor #geological structure #basement #reservoir pressure #Central dome #Northeast dome #Southern dome #North dome #Bach Ho field
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp công nghệ và kỹ thuật nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ Kỳ III: Đề xuất các giải pháp kỹ thuật - công nghệ để khai thác hiệu quả đối tượng móng mỏ Bạch Hổ trong giai đoạn cuối
Tạp chí Dầu khí - Tập 8 - Trang 16-35 - 2018
Sau hơn 30 năm khai thác, đến nay trữ lượng thu hồi còn lại có khả năng khai thác của mỏ Bạch Hổ đang tồn tại trong: (i) các khe nứt, hang hốc chưa khai thác ở phần nóc của thân dầu; (ii) hệ thống khe nứt lớn (macro) thuộc phần giữa của thân dầu (dầu dư bão hòa - saturated oil residues chưa quét đẩy hết); (iii) đới vi nứt nẻ và nứt nẻ 1 chiều không liên thông; (iv) phần nóc móng nhô cao mà trước đây chưa xác định được và chưa mở vỉa; (v) những thể tích còn sót do chưa xác định chính xác đới nứt nẻ hoặc quỹ đạo khoan chưa đến được. Bơm ép nước cho đến nay là giải pháp hiệu quả nhất góp phần quan trọng tăng lưu lượng các giếng, ổn định tỷ số khí - dầu, nâng cao hệ số thu hồi dầu và đặc biệt là ổn định sản lượng dầu khai thác khối Trung tâm tầng móng Bạch Hổ. Tuy nhiên, bơm ép nước chỉ hiệu quả ở các khu vực kiến tạo dập vỡ mạnh, các đới nứt nẻ liên thông tốt, độ thấm tốt và sẽ không hiệu quả ở các khu vực mà cường độ hoạt động kiến tạo yếu, hoặc do thành phần thạch học mà mức độ dập vỡ đất đá thấp, các khe nứt ít liên thông, độ thấm kém. Bơm ép nước duy trì áp lực vỉa trên áp suất bão hòa cũng không phải hiệu quả ở tất cả các giai đoạn khai thác, đặc biệt đối với giai đoạn cuối cần điều chỉnh theo hướng giảm. Thách thức lớn nhất ở mỏ Bạch Hổ hiện nay là: độ ngập nước tăng nhanh kể cả các giếng chủ lực; ranh giới dầu - nước ở khối Trung tâm chỉ còn cách nóc móng xung quanh 100m, có nơi chỉ còn cách nóc móng 18m; hệ số thu hồi dầu của 2 khối Nam và Đông Bắc rất thấp, tương ứng là 1,9% và 1,3%; khai thác và nâng cao hệ số thu hồi dầu tầng móng từ các đới vi nứt nẻ vô cùng khó khăn. Trên cơ sở phân tích cấu trúc địa chất và kiến tạo của mỏ Bạch Hổ, thành phần thạch học và tính chất đá chứa, tính chất dầu vỉa, trữ lượng tầng móng, từ đó đánh giá thực trạng khai thác, đề xuất các giải pháp công nghệ, kỹ thuật cụ thể cho từng khu vực và đối tượng nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ. Trong Kỳ III và cũng là kỳ cuối của công trình này, tác giả tập trung phân tích xác định vị trí, trữ lượng dầu còn lại trong đá móng mỏ Bạch Hổ; làm rõ cơ chế hình thành, cấu trúc không gian rỗng tầng móng; đặc trưng thấm chứa, cơ chế dòng chảy trong cấu trúc không gian rỗng của tầng móng; đề xuất các giải pháp công nghệ - kỹ thuật cho từng đối tượng/từng khu vực để khai thác hiệu quả đối tượng móng mỏ Bạch Hổ trong giai đoạn cuối.
#Improvement of oil recovery factor #basement #reservoir pressure #Bach Ho field #final stage
ĐỊNH LƯỢNG CẦN SA TỔNG HỢP 5-FLUORO-MDMB-PICA CÓ TRONG MẪU MA TÚY BẰNG PHƯƠNG PHÁP SẮC KÝ KHÍ GHÉP ĐẦU DÒ KHỐI PHỔ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Xây dựng quy trình định lượng chấtcần sa tổng hợp 5-FLUORO-MDMB-PICA có trong mẫu ma túy thu thập được bằng phương pháp sắc ký khí ghép đầu dò khối phổ (GC-MS). Đối tượng và phương pháp: Mẫu cần sa tổng hợp chứa trong các dạng cỏ Mỹ được thu thập trong các vụ án tại Việt Nam từ năm 2018 đến 2020, được xử lý và dùng làm mẫu thử để thẩm định quy trình định lượng 5-FLUORO-MDMB-PICA bằng phương pháp GC-MS theo hướng dẫn của ICH. Kết quả: Quy trình phân tích,định lượng 5-FLUORO-MDMB-PICA, đã xác định được điều kiện sắc ký khí GC-MS thích hợp để pic 5-FLUORO-MDMB-PICA tách hoàn toàn với các pic khác. Quy trình định lượng đã được thẩm định về độ lặp lại và độ đúng phù hợp để định lượng 5-FLUORO-MDMB-PICA trong mẫu cỏ Mỹ với giới hạn phát hiện là 0,06 mg/mL. Hàm lượng trung bình của 5-FLUORO-MDMB-PICAtrong cỏ Mỹ được xác định nằm trong khoảng 2,2 mg tính trên 100mg cỏ Mỹ (2,2%). Kết luận: Lần đầu tiên tại Việt Namquy trình định lượng5-FLUORO-MDMB-PICA trong mẫu cỏ Mỹđã được xây dựng và thẩm định.Quy trình đơn giản, nhanh, ít tốn kém, kết quả có độ lặp lại cao và độ đúng đáng tin cậy. Quy trình đạt tất cả các yêu cầu thẩm định theo hướng dẫn của ICH. Với các ưu điểm trên, quy trình này cóthể định tính, định lượng nhanh, chính xác và được áp dụng rộng rãi trong điều kiện các phòng thí nghiệm giám định ma túy ở Việt Nam, góp phần định hướng xây dựng quy trình giám định các chất ma túy cần sa tổng hợp mớicho các cơ quan chức năng, xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về An Ninh trong đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy.
#Cần sa tổng hợp #GC-MS #5-FLUORO-MDMB-PICA
Sự du nhập giáo dục phương Tây vào Nam Kỳ Việt Nam thời thuộc Pháp (1861 - 1945)
800x600 Thông qua việc trình bày một cách hệ thống giáo dục Nam Kỳ thời thuộc Pháp, tác giả cho thấy quá trình thiết lập hệ thống giáo dục phương Tây của Pháp ở Nam Kỳ, từng bước đi đến xỏa bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho giáo ở đây. Tác giả rút ra những nhận định về hệ quả tích cực và những hậu quả mà nền giáo dục của Pháp đem đến cho nhân dân Nam Kỳ. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 st1\:*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";}
#Du nhập #Giáo dục #Phương Tây #Việt Nam thời Pháp thuộc
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp công nghệ và kỹ thuật nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ Kỳ I: Đối tượng móng mỏ Bạch Hổ và quá trình khai thác
Tạp chí Dầu khí - Tập 5 - Trang 22-28 - 2018
Trữ lượng dầu tầng móng Bạch Hổ thuộc nhóm cực lớn. Sau hơn 30 năm khai thác, đến nay trữ lượng thu hồi còn lại có khả năng khai thác của mỏ Bạch Hổ đang tồn tại trong: (i) các khe nứt, hang hốc chưa khai thác ở phần nóc của thân dầu, (ii) hệ thống khe nứt macro thuộc phần giữa của thân dầu (dầu dư bão hòa - saturated oil residues chưa quét đẩy hết); (iii) đới vi nứt nẻ và nứt nẻ một chiều không liên thông; (iv) phần nóc móng nhô cao mà trước đây chưa xác định được và chưa mở vỉa; (v) những thể tích còn sót do chưa xác định chính xác đới nứt nẻ hoặc quỹ đạo khoan chưa đến được. Bơm ép nước cho đến nay là giải pháp hiệu quả nhất góp phần quan trọng tăng lưu lượng các giếng, ổn định tỷ số khí - dầu, nâng cao hệ số thu hồi dầu và đặc biệt là ổn định sản lượng dầu khai thác khối Trung tâm tầng móng Bạch Hổ. Tuy nhiên, bơm ép nước chỉ hiệu quả ở các khu vực kiến tạo dập vỡ mạnh, các đới nứt nẻ liên thông tốt, độ thấm tốt và sẽ không hiệu quả ở các khu vực mà cường độ hoạt động kiến tạo yếu, hoặc do thành phần thạch học mà mức độ dập vỡ đất đá thấp, các khe nứt ít liên thông, độ thấm kém. Bơm ép nước duy trì áp lực vỉa trên áp suất bão hòa cũng không phải hiệu quả ở tất cả các giai đoạn khai thác, đặc biệt đối với giai đoạn cuối cần điều chỉnh theo hướng giảm. Thách thức lớn nhất ở mỏ Bạch Hổ hiện nay là: độ ngập nước tăng nhanh kể cả các giếng chủ lực; ranh giới dầu - nước ở khối Trung tâm chỉ còn cách nóc móng xung quanh 100m, có nơi chỉ còn cách nóc móng 18m; hệ số thu hồi dầu của 2 khối Nam và Đông Bắc rất thấp, tương ứng là 1,9% và 1,3%; khai thác và nâng cao hệ số thu hồi dầu tầng móng từ các đới vi nứt nẻ vô cùng khó khăn. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích cấu trúc địa chất và kiến tạo của mỏ Bạch Hổ, thành phần thạch học và tính chất đá chứa, tính chất dầu vỉa, trữ lượng tầng móng, từ đó đánh giá thực trạng khai thác, đề xuất các giải pháp công nghệ, kỹ thuật cụ thể cho từng khu vực và đối tượng nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ.
#Enhanced oil recovery #structural geology #fractured basement #Bach Ho field
Biện pháp hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học, Trường Đại học Đồng Tháp
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp - Tập 10 Số 1 - Trang 11-19 - 2021
Tự học có vai trò rất quan trọng trong việc giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ kiến thức một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập. Vì vậy, nhằm hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên Trường Đại học Đồng Tháp nói chung và sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học nói riêng, bài viết trình bày kết quả khảo sát thực trạng kỹ năng tự học của sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Đồng Tháp; Trên cơ sở đó, đã đề xuất một số biện pháp hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Đồng Tháp.
#Kỹ năng tự học #sinh viên #Trường Đại học Đồng Tháp
Đánh giá khả năng cung cấp dưỡng chất bản địa của đất cho cây mía trên đất phù sa ở Đồng bằng sông Cửu Long
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 39 - Trang 61-74 - 2015
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định khả năng cung cấp dưỡng chất bản địa của đất và hấp thu dinh dưỡng NPK của cây mía ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thí nghiệm được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 4 nghiệm thức phân bón (NPK, NP, NK và PK) trên đất phù sa ở Cù Lao Dung – Sóc Trăng và Long Mỹ - Hậu Giang. Kết quả thí nghiệm cho thấy khả năng cung cấp dưỡng chất NPK bản địa của đất phù sa trồng mía là 84-109 kg N ha-1; 68- 82 kg P2O5 ha-1 và 401- 577 kg K2O ha-1. Khả năng cung cấp N, P và K từ đất phù sa không đáp ứng đủ nhu cầu sinh trưởng cho cây mía đường thông qua đáp ứng năng suất mía. Tổng hấp thu NPK của cây mía trồng trên đất phù sa đạt năng suất 154 – 172 tấn ha-1 là 285 - 296 kg N ha-1; 131 - 148 kg P2O5 ha-1 và 564 - 869 kg K2O ha-1 ở nghiệm thức NPK. Dựa trên kỹ thuật lô khuyết và năng suất mục tiêu cho vùng trồng mía ở Cù Lao Dung và Long Mỹ theo thứ tự là 180 và 160 tấn ha-1 thì công thức phân bón cho hai vùng này là 268N - 91P2O5 -122 K2O và 269N – 89P2O5-120K2O.
#dinh dưỡng khoáng NPK #hấp thu NPK #cây mía đường #kỹ thuật lô khuyết #đất phù sa
Tổng số: 231   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10