Candida là gì? Các công bố khoa học về Candida
Candida là một loại nấm sống trong cơ thể con người và động vật. Candida albicans là loại phổ biến nhất gây nhiễm trùng cho con người. Nó thường sống trong hệ t...
Candida là một loại nấm sống trong cơ thể con người và động vật. Candida albicans là loại phổ biến nhất gây nhiễm trùng cho con người. Nó thường sống trong hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch của chúng ta mà không gây ra vấn đề nào. Tuy nhiên, khi hệ miễn dịch yếu đuối hoặc tổng hợp, Candida có thể phát triển quá mức và gây nhiễm trùng trong các phần khác nhau của cơ thể, chẳng hạn như miệng, da, niêm mạc, hệ tiêu hóa và hệ sinh dục. Nhiễm trùng Candida thường gây ra các triệu chứng như viêm, ngứa, chảy, đau và sưng.
Candida là một loại nấm hiếm hơn so với vi khuẩn trong cơ thể và có thể tồn tại dưới dạng một nguồn lực sinh học trong đường tiêu hóa, niêm mạc miệng, âm đạo, da và các vùng khác của cơ thể. Candida có thể sống ở trạng thái bình thường mà không gây ra vấn đề nào khi hệ miễn dịch lành lặn và cân bằng vi sinh của cơ thể được duy trì.
Tuy nhiên, nếu hệ miễn dịch yếu hoặc cân bằng vi sinh của cơ thể bị phá vỡ, Candida có thể phát triển quá mức và gây nhiễm trùng. Một số yếu tố và tình huống có thể góp phần làm tăng nguy cơ mắc nhiễm trùng Candida, bao gồm:
1. Sử dụng kháng sinh: Kháng sinh có thể tiêu diệt các vi khuẩn "tốt" trong cơ thể, mở đường cho Candida phát triển quá mức.
2. Hệ miễn dịch yếu: Bất kỳ tình trạng nào làm suy yếu hệ miễn dịch, chẳng hạn như nhiễm HIV, ung thư, tiểu đường, dùng steroid lâu dài hay dùng thuốc chống tác động miễn dịch, đều làm tăng nguy cơ mắc nhiễm trùng Candida.
3. Thai kỳ: Sự thay đổi nồng độ hormone trong cơ thể phụ nữ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Candida.
4. Bịnhiễm trùng nguyên bào Candida: Đôi khi một loại Candida có thể xâm nhập vào mô hoặc huyết thanh và gây ra nhiễm trùng huyết.
Triệu chứng của nhiễm Candida có thể khác nhau tuỳ thuộc vào vị trí của nhiễm trùng. Các triệu chứng thường gặp bao gồm ngứa, viêm, đỏ, chảy, đau hoặc sưng. Các vị trí ủng hộ sự phát triển của Candida bao gồm miệng (bao gồm viêm lợi, viêm họng và viêm niêm mạc miệng), da, niêm mạc âm đạo, niêm mạc đường tiêu hóa hoặc niêm mạc khác.
Sự chẩn đoán và điều trị của nhiễm Candida thường đòi hỏi bác sĩ xác định xem các triệu chứng và các thay đổi cơ thể có phải do Candida gây ra không. Phương pháp điều trị bao gồm sử dụng thuốc kháng nấm, thay đổi lối sống và chế độ ăn uống, tăng cường hệ miễn dịch và điều trị các tình trạng cơ bản nếu có.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "candida":
Hướng dẫn về quản lý bệnh nhân mắc nhiễm nấm Candida xâm lấn và nhiễm nấm Candida niêm mạc đã được chuẩn bị bởi một Ban Chuyên gia của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ. Những hướng dẫn cập nhật này thay thế cho những hướng dẫn trước đó đã được công bố trong số 15 tháng 1 năm 2004 của tạp chí Bệnh truyền nhiễm lâm sàng và nhằm mục đích cho những nhà cung cấp dịch vụ y tế chăm sóc cho những bệnh nhân có nguy cơ mắc hoặc đã mắc những nhiễm trùng này. Kể từ năm 2004, một số loại thuốc chống nấm mới đã được đưa ra thị trường và một số nghiên cứu mới liên quan đến điều trị nhiễm nấm Candida trong máu, các dạng nhiễm nấm xâm lấn khác, và bệnh niêm mạc, bao gồm nhiễm nấm Candida ở họng miệng và thực quản cũng đã được công bố. Ngoài ra, còn có những dữ liệu khuyến cáo gần đây về việc phòng ngừa nhiễm nấm Candida xâm lấn ở những trẻ sơ sinh và người lớn có nguy cơ cao cũng như điều trị kinh nghiệm cho những trường hợp nghi ngờ nhiễm nấm Candida xâm lấn ở người lớn. Những thông tin mới này đã được đưa vào tài liệu sửa đổi này.
Một gen ứng cử viên cho vị trí bệnh Alzheimer (AD) trên nhiễm sắc thể 1 đã được xác định (
Khoảng 90% các khối u tuyến tụy ở người cho thấy mất mảnh alen tại nhiễm sắc thể 18q. Để xác định các gene ức chế khối u ứng cử trên 18q, một nhóm các khối u tuyến tụy đã được phân tích để tìm các vị trí hội tụ của sự xóa bỏ đồng hợp. Hai mươi lăm trong số 84 khối u có sự xóa bỏ đồng hợp tại 18q21.1, một vị trí mà không bao gồm
Hội chứng u bã tế bào đáy (BCNS) được đặc trưng bởi các bất thường phát triển và bởi sự xuất hiện ung thư sau sinh, đặc biệt là ung thư biểu mô tế bào đáy (BCC), loại ung thư phổ biến nhất ở người. Các đột biến di truyền ở bệnh nhân BCNS và một đột biến soma trong một trường hợp BCC ngẫu nhiên đã được xác định trong một gen đồng loại của con người thuộc về
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10