thumbnail

The Kaohsiung Journal of Medical Sciences

SCIE-ISI SCOPUS (1996-2023)

  1607-551X

 

 

Cơ quản chủ quản:  WILEY , Elsevier (Singapore) Pte Ltd

Lĩnh vực:
Medicine (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Nhiễm Virus Viêm Gan ở Đài Nam: Nghiên Cứu Dựa Trên Cộng Đồng Đa Trung Tâm Dịch bởi AI
Tập 26 Số 9 - Trang 461-469 - 2010
Jeng‐Fu Yang, Chia‐I Lin, Jee‐Fu Huang, Chia‐Yen Dai, Weikang Nicholas Lin, Chi‐Kung Ho, Ming‐Yen Hsieh, Li‐Po Lee, Nguyen Xuan Ho, Zu‐Yau Lin, Shinn‐Cherng Chen, Ming‐Yuh Hsieh, Liang‐Yen Wang, Ming‐Lung Yu, Wan‐Long Chuang, Wen‐Yu Chang

Virus viêm gan B (HBV) và virus viêm gan C (HCV) là những nguyên nhân chính gây ra bệnh gan tại Đài Loan và có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của đất nước này. Nghiên cứu này đã điều tra tỷ lệ huyết thanh của HBV và HCV tại Đài Nam. Các chương trình sàng lọc đã được thực hiện từ tháng 9 năm 1999 đến tháng 8 năm 2005 nhằm giám sát bệnh gan dựa trên cộng đồng. Tổng cộng có 28.797 người lớn từ Đài Nam tham gia, bao gồm Thành phố Cao Hùng (n = 14.036), Huyện Cao Hùng (n = 7.713) và Huyện Bình Đông (n = 7.048). Tuổi trung bình là 50,3 ± 14,6 năm (khoảng 20–97 năm), trong đó 41,0% là nam giới. Các xét nghiệm kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg), kháng thể HCV (anti-HCV) và xét nghiệm chức năng gan đã được thực hiện. Trong số 28.797 người lớn, tỷ lệ HBsAg(+) là 15,1% và tỷ lệ anti-HCV(+) là 8,6%. Tỷ lệ huyết thanh của HBsAg ở Huyện Cao Hùng là 18,2%, cao hơn so với Thành phố Cao Hùng (14,7%, p < 0,001) hoặc Huyện Bình Đông (12,5%, p < 0,001). Tỷ lệ huyết thanh của anti-HCV ở Huyện Cao Hùng là 17,2%, cao hơn so với các khu vực khác (Thành phố Cao Hùng = 5,8%, p < 0,001; Huyện Bình Đông = 4,6%, p < 0,001). Tỷ lệ đồng nhiễm HBsAg và anti-HCV là 1,1% (323 bệnh nhân). Thị trấn Tzukuan ở Huyện Cao Hùng có tỷ lệ nhiễm HBsAg cao (19,1%, 1.026/5.375 bệnh nhân), anti-HCV (22,4%, 1.203/5.375 bệnh nhân) và đồng nhiễm HBsAg/anti-HCV (3,6%, 191/5.375 bệnh nhân). Các đối tượng có anti-HCV(+) có tuổi cao hơn và có mức alanine transaminase cao hơn so với những người có HBsAg(+) (p < 0,001 và p < 0,001 tương ứng). Nghiên cứu hiện tại cho thấy những đặc điểm dịch tễ học của nhiễm HBV và HCV ở người lớn tại Đài Nam. Nhiễm viêm gan virus vẫn còn phổ biến tại khu vực này.

Toàn cầu hóa việc học dựa trên vấn đề (PBL): Những tác động đa văn hóa Dịch bởi AI
Tập 24 Số 3S - 2008
M.C.E. Gwee

Học dựa trên vấn đề (PBL) về bản chất là một thiết kế hệ thống học tập kết hợp nhiều chiến lược giáo dục nhằm tối ưu hóa kết quả học tập của sinh viên, không chỉ giới hạn trong việc tiếp thu kiến thức. PBL đã được triển khai gần bốn thập kỷ trước như một con đường học tập đổi mới và thay thế trong giáo dục y khoa tại Trường Y Đại học McMaster. Kể từ đó, PBL đã lan rộng trên toàn thế giới và hiện đã được áp dụng toàn cầu, bao gồm phần lớn các nước châu Á. Sự toàn cầu hóa PBL có những tác động đa văn hóa quan trọng. Việc truyền đạt kiến thức trong PBL liên quan đến việc giảng dạy-học tập chủ động giữa các đồng nghiệp với phong cách giao tiếp cởi mở. Do đó, điều này có thể gây ra một mâu thuẫn rõ ràng giữa phong cách giao tiếp ở châu Á thường bị thống trị bởi sự e dè văn hóa. Tuy nhiên, bằng chứng hiện có, đặc biệt từ trải nghiệm PBL của một số sinh viên y khoa năm cuối Hàn Quốc tham gia học tích lũy tại Trường Y Đại học Toronto và trải nghiệm PBL đa văn hóa do Đại học Y Kaohsiung khởi xướng, cho thấy mạnh mẽ rằng việc tạo ra một môi trường học tập thuận lợi và hỗ trợ cho sinh viên học tập trong bối cảnh PBL có thể vượt qua các rào cản văn hóa đã được nhận thức; điều này có nghĩa là, sự nuôi dưỡng quan trọng hơn văn hóa trong môi trường học tập. Karaoke thực sự là một sáng kiến của châu Á. Văn hóa và triết lý Karaoke cung cấp một bài học hữu ích về cách tạo ra một môi trường thuận lợi và hỗ trợ để khuyến khích, nâng cao và thúc đẩy hoạt động nhóm. Một số đặc điểm chính liên quan đến văn hóa châu Á thực sự nhất quán với và phù hợp với một số nguyên tắc cơ bản của PBL, bao gồm sự phù hợp giữa việc châu Á nhấn mạnh lợi ích nhóm trước lợi ích cá nhân, và thiết kế học tập nhóm hợp tác nhỏ dùng trong PBL. Mặc dù có những kỳ vọng lớn về kết quả giáo dục mà sinh viên có thể đạt được từ PBL, nhưng các bằng chứng hiện có ủng hộ luận điểm rằng các kết quả giáo dục thực sự đạt được từ PBL không thực sự khớp với các kết quả giáo dục mong đợi thường được chỉ định và dự kiến cho một chương trình PBL. Sự thành thạo tiếng Anh có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho một số trường y khoa châu Á, nơi chọn sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ thảo luận trong các buổi học PBL. Một phương pháp mới có thể được áp dụng để vượt qua vấn đề này là cho phép sinh viên tham gia thảo luận sử dụng cả ngôn ngữ mẹ đẻ của họ cũng như tiếng Anh, một thực hành thành công cao được triển khai bởi Đại học Airlangga, Surabaya, Indonesia. Vì PBL là một phương pháp giáo dục tốn tài nguyên, các nhà giáo dục y khoa châu Á cần có hiểu biết rõ ràng về quy trình, triết lý và thực hành PBL để có thể tối ưu hóa các kết quả giáo dục mà có thể thu được từ một chương trình học PBL.

Axit gambogic cải thiện sự tiến triển của ung thư phổi không tế bào nhỏ thông qua việc ức chế con đường tín hiệu mTOR Dịch bởi AI
Tập 33 Số 11 - Trang 543-549 - 2017
Teng Zhao, Hongjian Wang, Wenshuai Zhao, Yiling Sun, Likuan Hu
Tóm tắt

Axit gambogic (GA) đã được chứng minh có tác dụng ức chế sự sinh sản của tế bào ung thư, kích thích quá trình apoptosis và tăng cường sự tích tụ của các gốc tự do oxy. Tuy nhiên, việc GA có thể cải thiện khả năng kháng thuốc đa dạng hay không thông qua việc điều chỉnh autophagy vẫn chưa được khám phá. Chúng tôi đã chứng minh rằng sự kết hợp giữa GA và cisplatin (CDDP) dẫn đến hiệu ứng ức chế sự phát triển mạnh mẽ hơn trên các tế bào A549 và NCI‐H460 sử dụng thử nghiệm MTT. Hơn nữa, việc điều trị bằng GA đã làm tăng đáng kể autophagy trong những tế bào này. Quan trọng hơn, cái chết tế bào do GA gây ra có thể bị loại bỏ phần lớn bởi việc điều trị bằng 3‐methyladenine (3‐MA) hoặc chloroquine (CQ), cho thấy cái chết tế bào do GA gây ra phụ thuộc vào autophagy. Phân tích Western blot cho thấy việc điều trị bằng GA đã ức chế sự hoạt hóa của Akt, mTOR và S6. Ngoài ra, việc kết hợp GA và rapamycin đã gây ra nhiều cái chết tế bào hơn so với GA hoặc rapamycin đơn độc. Tóm lại, GA có thể có công dụng như một liệu pháp hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) thông qua việc gây chết tế bào phụ thuộc vào autophagy, ngay cả khi các tế bào ung thư đã phát triển khả năng kháng lại apoptosis.

Sự biểu hiện quá mức của motif ba phần TRIM26 ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng cách ức chế tín hiệu PI3K/AKT Dịch bởi AI
Tập 36 Số 6 - Trang 417-422 - 2020
Jiali Tao, Man Luo, Hong Sun, Hongmei Zhao, Qingsong Sun, Ziming Huang
Tóm tắt

Có báo cáo rằng motif ba phần chứa 26 (TRIM26) liên quan đến quá trình hình thành khối u của một số loại ung thư, nhưng chức năng của nó trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) vẫn chưa được làm rõ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phát hiện rằng TRIM26 bị điều hòa thấp rõ rệt trong cả mô khối u và dòng tế bào NSCLC. Thêm vào đó, sự biểu hiện cao của TRIM26 ở bệnh nhân NSCLC dự đoán chỉ số tích cực cho khả năng sống sót tổng thể của bệnh nhân. Hơn nữa, sự biểu hiện quá mức của TRIM26 ức chế đáng kể sự tăng trưởng của tế bào NSCLC. Các nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi chỉ ra rằng sự biểu hiện quá mức của TRIM26 ức chế sự phosphoryl hóa của PI3K p85 và AKT. Và TRIM26 biểu hiện quá mức đã điều chỉnh sự biểu hiện của các gen liên quan đến chu kỳ tế bào, bao gồm giảm biểu hiện CDK4, Cyclin A, Cyclin D1, Cyclin D3 và Cyclin E, và tăng cường biểu hiện p27. Cuối cùng, chúng tôi phát hiện rằng TRIM26 tăng cường biểu hiện PTEN bằng cách ổn định protein PTEN trong các tế bào NSCLC. Tổng quan, nghiên cứu hiện tại của chúng tôi cho thấy TRIM26 bị giảm trong NSCLC và sự biểu hiện quá mức của TRIM26 đã ức chế sự tăng trưởng tế bào NSCLC bằng cách ức chế con đường PI3K/AKT, điều này gợi ý rằng TRIM26 có thể là một mục tiêu tiềm năng cho việc điều trị NSCLC trong tương lai.

Polysaccharide nhân sâm như một chất nhạy cảm với bức xạ thông qua việc kích thích apoptosis và autophagy trong điều trị u xương Dịch bởi AI
Tập 33 Số 11 - Trang 535-542 - 2017
Xiaoyu Zhang, Ke Sun, Qi Zhu, Tao Song, Yang Liu
Tóm tắt

Các nghiên cứu gần đây đã xác nhận việc sử dụng kết hợp thuốc chống ung thư với bức xạ ion hóa (IR) có thể cải thiện độ nhạy cảm của tế bào u xương (OS). Do đó, cần thiết phải xác định các loại thuốc tiềm năng có hiệu quả nhằm tăng cường độ nhạy cảm với bức xạ. Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi đã phát hiện rằng 20, 10, 5 và 1 μM polysaccharide nhân sâm (GPS) đã làm giảm rõ rệt khả năng sống sót của tế bào MG-63 với hoặc không có bức xạ γ trong một mối liên hệ liều lượng và thời gian. Đáng chú ý, 20 μM GPS kết hợp với điều trị 5 Gy đã làm giảm khả năng hình thành thuộc địa gần 13,75 lần so với điều trị IR đơn thuần. Kết quả của chúng tôi cho thấy GPS có thể làm tăng đáng kể apoptosis sớm và autophagy trong các tế bào MG-63. Nồng độ thuốc cao hơn và liều phơi nhiễm lớn hơn có liên quan trực tiếp đến nhiều hơn apoptosis và autophagy trong tế bào. Phân tích Western blot cho thấy GPS giảm phosphoryl hóa của p38 và AKT cũng như biểu hiện protein của Bax và cleaved-caspase3. Tóm lại, GPS đã ức chế sự phát triển và tăng cường apoptosis cũng như cái chết autophagic trong các tế bào OS, chỉ ra rằng GPS có thể là một chất hỗ trợ có hiệu quả tiềm năng trong việc cải thiện độ nhạy cảm với bức xạ của bệnh nhân OS.

#u xương #polysaccharide nhân sâm #bức xạ ion hóa #apoptosis #autophagy
Wisconsin Card Sorting Test Performance after Putaminal Hemorrhagic Stroke
Tập 22 - Trang 75-84 - 2006
Chwen-Yng Su, Yee-Pay Wuang

The purpose of this study was to compare the performance differences in the Wisconsin Card Sorting Test (WCST) between 55 patients with putaminal hemorrhage (PH) 3 months after stroke and 69 age‐matched normal controls. Impairment on WCST was defined as performance greater than 1.64 standard deviation below the control mean. A multivariate analysis of covariance (MANCOVA) controlling for education yielded a significant main effect for group but not for education and interaction of group × education. Univariate analyses revealed significant between‐group differences in five WCST measures, including perseverative errors (PE), perseverative responses (PR), conceptual‐level responses (CLR), number of categories completed (NCC), and trials to complete the first category (TCC). For patients with PH, z‐scores for two WCST indices were within the impaired range: TCC and PR. A high percentage of patients (40‐47%) scored in the designated impaired range on NCC, PR, PE, and TCC. The WCST variables discriminated patients from controls with an overall accurate classification rate of 91.9%. Of these, the variables that contributed most to the differentiation between patients and normal controls were PE, CLR, and total number correct (TNC) (a standardized canonical discriminant function coefficient > 0.40). Finally, no significant hemispheric laterality effects emerged on any of the WCST variables. The results of this study provide further evidence of impaired mental set shifting in stroke patients with PH. The implications for rehabilitation professionals are discussed, and recommendations for further research are made.

Chỉ số sức khỏe tuyến tiền liệt (PHI) cải thiện khả năng phát hiện ung thư tuyến tiền liệt trong lần sinh thiết đầu tiên ở nam giới Đài Loan có PSA 4–10 ng/mL Dịch bởi AI
Tập 34 - Trang 461-466 - 2018
Po-Fan Hsieh, Chao-Hsiang Chang, Chi-Rei Yang, Chi-Ping Huang, Wen-Chi Chen, Chin-Chung Yeh, Eric Chieh-Lung Chou, Kuo-Liang Chen, Chi-Shun Lien, Guang-Heng Chen, Po-Jen Hsiao, Yi-Huei Chang, Hsi-Chin Wu
Tóm tắt

Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhằm mục đích xác thực Chỉ số Sức khỏe Tuyến tiền liệt (PHI) để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt (PCa). Chúng tôi đã tuyển chọn có triển vọng những bệnh nhân từ 50–75 tuổi có mức kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (PSA) trong huyết thanh từ 4–10 ng/mL đang thực hiện sinh thiết trực tràng tuyến tiền liệt giữa tháng 4 năm 2016 và tháng 5 năm 2017. Kết quả chính là hiệu suất chẩn đoán của nhiều loại dẫn xuất PSA (PSA tổng, PSA tự do, %fPSA, p2PSA, %p2PSA và PHI) để dự đoán PCa. Kết quả thứ cấp là sự so sánh các dẫn xuất PSA giữa những bệnh nhân có điểm Gleason (GS) < 6 và GS < 7. PCa được chẩn đoán ở 36 trong số 154 bệnh nhân (23.4%), và 26 (16.9%) có GS < 7. Diện tích dưới các đường cong đặc trưng của người nhận (ROC) lớn hơn một cách có ý nghĩa đối với %p2PSA và PHI so với PSA (0.76 so với 0.57, p = 0.015 và 0.77 so với 0.57, p = 0.004, tương ứng). Những bệnh nhân có GS < 7PCa có %p2PSA và PHI cao hơn một cách biên giới so với những người có GS là 6 (17.8 so với 12.73, p = 0.06; 46.58 so với 31.55, p = 0.05). Tại giá trị cắt PHI là 29.6, độ nhạy và độ đặc hiệu là 77.8% và 67.8% trong việc phát hiện PCa, tương ứng. Thêm vào đó, 57.1% bệnh nhân đã tránh được sinh thiết không cần thiết, trong khi ba bệnh nhân (1.9%) có GS 7 PCa đã bị bỏ sót. Kết luận, khả năng của %p2PSA và PHI trong việc dự đoán kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt tốt hơn so với PSA và %fPSA trong lần sinh thiết đầu tiên ở nam giới Đài Loan có PSA trong huyết thanh từ 4 đến 10 ng/mL.

MicroRNA‐379 ức chế sự sinh trưởng và xâm lấn tế bào ung thư thanh quản thông qua việc trực tiếp nhắm đến TCF‐4 Dịch bởi AI
Tập 35 Số 12 - Trang 731-738 - 2019
J G Wei, Liang Zhang, Zhiming Zhao, Yu‐Zhu Zhao, Qiang Fu, Yan Yang
Tóm tắt

Mô hình biểu hiện, chức năng và cơ chế điều tiết chi tiết của miR-379 trong ung thư thanh quản vẫn còn chưa được biết đến. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhằm mục đích khám phá các mục tiêu miR-379 mới tiềm năng và làm sáng tỏ vai trò của nó trong ung thư thanh quản. Mức độ biểu hiện của miR-379 được đo dựa trên dữ liệu thu được từ cơ sở dữ liệu TCGA và các dòng tế bào. Sau khi chuyển gen miR-379, các thí nghiệm đánh giá sự sinh trưởng tế bào, xâm lấn và di chuyển tế bào, cùng với thí nghiệm chữa lành vết thương được thực hiện trên dòng tế bào HEp-2 để đánh giá ảnh hưởng của miR-379 đối với ung thư thanh quản trong ống nghiệm. Các gen mục tiêu của miR-379 được dự đoán và xác thực bằng cách sử dụng thí nghiệm báo cáo luciferase. Mức độ biểu hiện miR-379 giảm trong các mô và dòng tế bào ung thư thanh quản. Hơn nữa, sự biểu hiện tăng cường miR-379 đã ức chế sự sinh trưởng tế bào, di chuyển và xâm lấn của các tế bào ung thư thanh quản. TCF-4 được phát hiện là một mục tiêu trực tiếp của miR-379 trong ung thư thanh quản. Hơn nữa, việc khôi phục biểu hiện TCF-4 đã cứu vãn vai trò ức chế của sự biểu hiện quá mức miR-379 đối với sự sinh trưởng tế bào, di chuyển và xâm lấn. Nghiên cứu của chúng tôi lần đầu tiên chứng minh rằng miR-379/TCF-4 có thể liên quan đến quá trình phát triển của ung thư thanh quản và miR-379 có vẻ như đóng vai trò là một ức chế khối u mới trong ung thư thanh quản.

A lesion mimicking malignancy in the cesarean scar: Decidualize endometriosis
Tập 32 Số 1 - Trang 50-51 - 2016
Esin Kaymaz Gezer, Ezgi Ayhan Çınar, Didar Gürsoy
Abdominal Splenosis Mimicking Hepatic Tumor: A Case Report
Tập 24 - Trang 602-607 - 2008
Ming-Lun Yeh, Liang-Yen Wang, Ching-I Huang, Ming-Yen Hsieh, Zu-Yau Lin, Wan-Long Chuang, Wen-Tsan Chang, Chun-Chieh Wu, Chiao-Yun Chen

Diagnosis of abdominal splenosis is often undiagnosed until treatment for splenic rupture or splenectomy. This report describes a patient with splenosis mimicking hepatic tumor. The patient had a history of splenic trauma with splenectomy and chronic hepatitis C. After routine abdominal ultrasound revealed a liver nodule, further imaging studies, including magnetic resonance imaging, computed tomography and angiography, were performed. After the patient eventually underwent surgery, pathology revealed splenic tissue. Despite its distinguishable clinical features, splenosis is difficult to identify by modern imaging modalities. Therefore, accurate and timely diagnosis of this disease requires constant vigilance.