Phytotherapy Research

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Alantolactone và Isoalantolactone Ngăn Ngừa Độc Tố Induced Từ Amyloid β25–35 Trong Neurons Vỏ Não Chuột và Suy Giảm Nhận Thức Induced Từ Scopolamine Ở Chuột Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 31 Số 5 - Trang 801-811 - 2017
Ji Yeon Seo, Soon Sung Lim, Jiyoung Kim, Ki Won Lee, Jong‐Sang Kim

Dựa trên bằng chứng về hoạt động kích thích enzyme giải độc/chống oxy hóa của alantolactone (AL) và isoalantolactone (IAL), mục đích của nghiên cứu này là điều tra tác động của AL và IAL đối với cái chết tế bào do Aβ25–35 gây ra trong các tế bào thần kinh vỏ não chuột và xác định tác động của chúng đối với amnesia do scopolamine gây ra ở chuột. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy cả hai hợp chất đều làm giảm hiệu quả độc tính của Aβ25–35 (10 μM) trong các tế bào thần kinh lấy từ vỏ não chuột. Cũng đã phát hiện ra rằng sự sản xuất các loài oxy phản ứng trong tế bào, bao gồm cả anion siêu oxy do Aβ25–35 gây ra, đã bị ức chế. Hơn nữa, việc sử dụng các sesquiterpenes đã đảo ngược sự suy giảm nhận thức do scopolamine gây ra được đánh giá thông qua các bài kiểm tra Morris water, Y-maze và passive avoidance, đồng thời các hợp chất này đã giảm hoạt động của acetylcholinesterase (AChE) theo cách phụ thuộc vào liều. Thú vị thay, AL và IAL không cải thiện sự thiếu hụt nhận thức do scopolamine gây ra ở chuột Nrf2−/−, gợi ý rằng việc cải thiện trí nhớ bởi các sesquiterpenes không chỉ qua việc kích hoạt đường tín hiệu Nrf2 mà còn thông qua hoạt động ức chế đối với AChE. Kết luận, kết quả của chúng tôi cho thấy AL và IAL có tác dụng bảo vệ thần kinh và đảo ngược sự suy giảm nhận thức do scopolamine gây ra trong mô hình chuột. Do đó, AL và IAL xứng đáng được nghiên cứu thêm như những tác nhân điều trị tiềm năng cho các bệnh thoái hóa thần kinh liên quan đến các loài oxy phản ứng.

Kaempferide ngăn ngừa suy giảm nhận thức thông qua việc làm giảm stress oxy hóa và tăng cường con đường tín hiệu của yếu tố thần kinh có nguồn gốc từ não / kinase B thụ thể tropomyosin / yếu tố buộc phản ứng cAMP Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 33 Số 4 - Trang 1065-1073 - 2019
Tingxu Yan, Bosai He, Mengjie Xu, Bo Wu, Feng Xiao, Kaishun Bi, Ying Jia

Kaempferide (KF) là một hợp chất flavonoid từ Alpinae oxyphylla Miq, và loại thảo dược này được sử dụng như một tác nhân bổ chính truyền thống. Bài báo này nhằm điều tra tác động của KF đối với suy giảm chức năng nhận thức và thoái hóa thần kinh trong mô hình chuột của bệnh Alzheimer được gây ra bởi việc tiêm nội thất não (ICV) Aβ1–42. Những con chuột được điều trị bằng KF với liều 0.02 và 0.2 mg/kg/ngày (ICV) trong năm ngày liên tiếp sau khi tiếp xúc với Aβ1–42. Kết quả các bài kiểm tra hành vi cho thấy KF có thể ngăn chặn sự suy giảm nhận thức ở chuột do Aβ1–42 gây ra như đã đánh giá qua bài kiểm tra hoạt động di chuyển, bài kiểm tra Y-maze và bài kiểm tra bơi Morris. Hơn nữa, hoạt động của superoxide dismutase và malondialdehyde trong hồi hải mã và vỏ não đã tăng lên nhờ việc đưa KF. Kết quả từ các lát hồi hải mã cho thấy các tế bào thần kinh được tích hợp và sắp xếp đều đặn trong các nhóm, những nhóm được truyền cùng với KF. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy KF có thể tăng cường tín hiệu protein yếu tố thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF)/kinase B thụ thể tropomyosin (TrkB)/yếu tố buộc phản ứng cAMP (CREB) trong hồi hải mã. Tất cả các kết quả đã cho thấy KF có thể phát huy tác dụng bảo vệ thần kinh ít nhất một phần thông qua việc giảm bớt stress oxy hóa và tăng cường con đường BDNF/TrkB/CREB trong chuột được gây ra bởi Aβ1–42.

Hoạt động ức chế của các phân đoạn nước ép trái cây dại đối với sự bám dính của Streptococcus pneumoniae trên tế bào phế quản của người Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 25 Số 1 - Trang 122-127 - 2011
Sanna Huttunen, Marko Toivanen, Satu Arkko, Marika Ruponen, Carina Tikkanen‐Kaukanen
Tóm tắt

Sự bám dính của vi khuẩn lên bề mặt tế bào là một bước quan trọng trước khi nhiễm trùng có thể xảy ra. Việc ức chế sự bám dính của vi khuẩn mở ra một phương pháp phòng ngừa mới chống lại nhiễm trùng. Nước ép nam việt quất (Vaccinium macrocarpon Ait.) đã được phát hiện có hoạt tính chống bám dính đối với nhiều loại vi khuẩn khác nhau. Streptococcus pneumoniae là một tác nhân gây bệnh quan trọng và là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra viêm phổi, viêm màng não và viêm tai giữa. Trong nghiên cứu này, hoạt tính ức chế của các phân đoạn nước ép nam việt quất (Vaccinium oxycoccos L.), việt quất (Vaccinium myrtillus L.) và quả di tích tía (Empetrum nigrumEmpetrum hermaphroditum L.) chống lại sự bám dính của phế cầu đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng tế bào phế quản người (Calu‐3) làm mô hình bám dính. Ngoài ra, hoạt tính kháng khuẩn của các phân đoạn nước ép quả cũng đã được kiểm tra. Kết quả cho thấy rằng các phân đoạn nước ép quả đã nghiên cứu có hoạt tính chống bám dính và nước ép nam việt quất là hoạt động nhất. Hoạt tính ức chế bám dính của nước ép nam việt quất lên đến gần 90% ở nồng độ 8,7 mg/g các chất rắn tan. Hoạt tính kháng khuẩn của các phân đoạn nước ép quả được khảo sát là rất đáng kể; sự tăng trưởng của phế cầu đã bị ức chế hoàn toàn ở nồng độ khoảng 86 mg/g. Cả hai hoạt động chống bám dính và kháng khuẩn đều bị giảm sau khi chiết xuất pha rắn của các loại nước ép quả, điều này có thể gợi ý về các hiệu ứng hiệp đồng phân tử của các phân tử nước ép quả chống lại S. pneumoniae. Những phát hiện này chỉ ra rằng nước ép nam việt quất, việt quất và quả di tích tía có tiềm năng chống lại nhiễm trùng phế cầu.

#vi khuẩn #bám dính #hoạt động ức chế #nước ép trái cây #nghiện khuẩn #Streptococcus pneumoniae #tế bào phế quản #hoạt tính kháng khuẩn
Tác dụng bảo vệ của axit vanillic đối với bệnh tiểu đường và bệnh thận tiểu đường bằng cách làm giảm stress oxy hóa và tăng cường biểu hiện của NF‐κB, TNF‐α và COX‐2 trong chuột Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 36 Số 3 - Trang 1338-1352 - 2022
Brahmjot Singh, Ajay Kumar, H.B. Singh, Sarabjit Kaur, Saroj Arora, Balbir Singh
Tóm tắt

Bệnh tiểu đường là rối loạn phổ biến nhất trên thế giới, đặc trưng bởi mức glucose huyết không kiểm soát và bệnh thận là một trong những biến chứng chính liên quan đến tăng glucose huyết. Axit vanillic – hợp chất sinh học chính có nguồn gốc tự nhiên từ rau củ, trái cây và thực vật – có nhiều hoạt tính dược lý như chống oxy hóa, kháng viêm và chống tăng sinh. Nghiên cứu hiện tại được thiết kế để điều tra tác dụng hạ đường huyết và bảo vệ thận của axit vanillic thông qua các hoạt tính dược lý khác nhau. Streptozotocin (50 mg/kg)/nicotinamide (110 mg/kg) được sử dụng để gây ra bệnh tiểu đường ở chuột. Việc sử dụng axit vanillic đường uống hàng ngày trong 6 tuần (25, 50 và 100 mg/kg) đã làm giảm đáng kể tình trạng tăng glucose huyết, tăng enzyme gan và làm bình thường hóa hồ sơ lipid bị thay đổi ở chuột bị tiểu đường. Hơn nữa, axit vanillic đã làm giảm chức năng thận bị suy giảm, như được chứng minh bằng sự giảm nồng độ creatinine huyết thanh, ure, axit uric và mức độ microprotein niệu trong nước tiểu cùng với sự tăng cường độ thanh thải creatinine niệu trong các chuột bị bệnh thận. Các chuột tiểu đường cho thấy sự gia tăng rõ rệt về các chất phản ứng với axit thiobarbituric (TBARS) và sự sản sinh anion superoxide (SAG) kèm theo sự giảm nồng độ glutathione đã khử (GSH) trong mô thận, điều này đã được cải thiện ở các chuột được điều trị bằng axit vanillic. Về mặt mô bệnh học, việc điều trị bằng axit vanillic liên quan đến việc giảm thiệt hại với những thay đổi cấu trúc bình thường hóa trong mô thận. Hơn nữa, các nhóm điều trị cho thấy sự ức chế việc tăng cường biểu hiện của yếu tố hạt nhân (NF)‐κB, yếu tố hoại tử u (TNF)‐α, cyclooxygenase (COX)‐2 và tăng cường biểu hiện của yếu tố hạt nhân liên quan đến tế bào hồng cầu 2 (Nrf‐2) trong mô thận. Kết luận, tác động cải thiện của axit vanillic trên các chuột bị bệnh thận tiểu đường có thể được gán cho khả năng quét gốc tự do mạnh mẽ của nó, giảm biểu hiện NF‐κB, TNF‐α, COX‐2 và tăng cường biểu hiện của các protein Nrf‐2 trong mô thận.

Bổ sung Scopoletin cải thiện tình trạng steatosis và viêm ở chuột mắc bệnh tiểu đường Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 31 Số 11 - Trang 1795-1804 - 2017
Ra‐Yeong Choi, Ju Ri Ham, Hae-in Lee, Hyun Wook Cho, Myung‐Sook Choi, Seok‐Kyu Park, Jin Lee, Myung‐Joo Kim, Kwon‐Il Seo, Mi‐Kyung Lee

Scopoletin là một thành phần sinh học có hoạt tính trong nhiều loại thực vật và trái cây có thể ăn được. Nghiên cứu này đã điều tra tác động của scopoletin đối với tình trạng steatosis gan và viêm ở chuột tiểu đường type 1 được cho ăn chế độ ăn nhiều chất béo, so sánh với metformin. Scopoletin (0,01%, w/w) hoặc metformin (0,5%, w/w) đã được cung cấp cùng với chế độ ăn nhiều chất béo cho chuột tiểu đường do streptozotocin gây ra trong 11 tuần. Cả scopoletin và metformin đều làm giảm lượng đường huyết và HbA1c, cũng như các mức ALT huyết thanh, TNF-α và IL-6, tình trạng không dung nạp glucose và sự tích tụ lipid ở gan so với nhóm đối chứng tiểu đường. Scopoletin hoặc metformin đã hạ thấp mức biểu hiện gen ở gan liên quan đến tổng hợp triglyceride (Pparg, Plpp2Dgat2) và cholesterol (Hmgcr), cùng với viêm (Tlr4, Myd88, Nfkb1, TnfaIl6), trong khi đó lại tăng cường biểu hiện gen Cyp7a1. Các mức protein PPARγ và DGAT2 ở gan cũng bị hạ thấp trong nhóm scopoletin hoặc metformin so với nhóm đối chứng. Scopoletin hoặc metformin cũng ức chế hoạt động của sinh tổng hợp axit béo gan và phosphatidate phosphohydrolase. Những kết quả này cho thấy scopoletin có tác dụng bảo vệ chống lại tình trạng steatosis và viêm do tiểu đường bằng cách ức chế sinh tổng hợp lipid và các con đường TLR4-MyD88. Bản quyền © 2017 John Wiley & Sons, Ltd.

Tác Động Chống Béo Phì của Hợp Chất Lưu Huỳnh Thiacremonone Qua Việc Giảm Điều Hoà Mức Triglyceride và Glucose Trong Máu Cũng Như Tích Tụ Lipid Ở Gan Của Chuột db/db Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 26 Số 9 - Trang 1265-1271 - 2012
Jung Ok Ban, Dong Hun Lee, Eun Jin Kim, Jeong Woo Kang, Man Sub Kim, Min Cho, Heon Sang Jeong, Jong Wan Kim, Young Yang, Jin Tae Hong, Do Young Yoon

Tỏi được sử dụng rộng rãi như một loại gia vị. Chiết xuất từ tỏi có tác dụng chống ung thư và chống viêm, tuy nhiên các nghiên cứu về hiệu quả chống béo phì lại cho kết quả mâu thuẫn. Tác dụng chống béo phì của thiacremonone, một hợp chất lưu huỳnh được chiết xuất từ tỏi, đã được đánh giá trên chuột béo phì db/db. Thiacremonone đã được cho uống cho chuột trong thời gian 3 tuần. Những con chuột db/db được điều trị bằng thiacremonone đã cho thấy sự giảm cân và giảm mức triglyceride và glucose trong máu so với chuột đối chứng. Phân tích mô học cũng cho thấy thiacremonone đã giảm đáng kể sự tích tụ lipid trong gan mỡ của chuột db/db được điều trị. Người ta nhận thấy rằng sự biểu hiện của GLUT‐4 và sự hấp thụ glucose đã được tăng cường bởi thiacremonone trong các tế bào mỡ 3T3‐L1. Việc điều trị bằng thiacremonone cũng đã ức chế mức độ biểu hiện của acetyl‐CoA carboxylase (ACC) và fatty acid synthase (FAS), những enzyme liên quan đến chuyển hóa lipid, trong gan của chuột db/db. Thêm vào đó, thiacremonone đã tăng cường sự biểu hiện của peroxisome proliferator‐activated receptor γ (PPARγ) trong gan mỡ. Tất cả những kết quả này gợi ý rằng thiacremonone có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện quản lý bệnh béo phì và các hội chứng chuyển hóa liên quan thông qua việc ức chế sự tích tụ lipid. Bản quyền © 2012 John Wiley & Sons, Ltd.

#tỏi #thiacremonone #béo phì #lipid #glucose #chuột db/db #hàm lượng triglyceride #dây chuyền chuyển hóa lipid
Tính năng dược phẩm mới của một số loại trấu sorgum (Sorghum bicolor): Ức chế phản ứng glycation của protein Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 22 Số 8 - Trang 1052-1056 - 2008
Johnetta L. Farrar, Diane K. Hartle, James L. Hargrove, Phillip Greenspan
Tóm tắt

Mặc dù sorgum có hàm lượng cao các hợp chất phytochemical polyphenolic và là một loại thực phẩm chính, nhưng vẫn thiếu nghiên cứu về tác động của nó đối với sức khỏe động vật và con người cũng như phòng ngừa bệnh tật. Các hợp chất phenolic, chủ yếu nằm trong phần trấu, khiến cho cây có những đặc tính chống oxy hóa đáng kể. Nghiên cứu này đã khảo sát tác động của chiết xuất ethanol từ một số loại trấu sorgum (S. bicolor) lên quá trình glycation albumin, một quá trình không có enzym được cho là quan trọng trong sinh bệnh học của nhiều biến chứng tiểu đường. Các loại trấu sorgum có hàm lượng phenolic cao và đặc tính chống oxy hóa mạnh mẽ đã ức chế quá trình glycation protein, trong khi đó các loại trấu có hàm lượng thấp trong những đặc tính này không ức chế quá trình này. Chiết xuất ethanol từ trấu lúa mì, gạo hoặc yến mạch không ức chế quá trình glycation protein. Mặc dù một loại trấu sorgum có hàm lượng phenolic cao (sumac) đã ức chế quá trình glycation protein khoảng 60%, nhưng chỉ tạo ra mức giảm 20% trong glycation albumin trung gian methylglyoxal. Những kết quả này gợi ý rằng một số loại trấu sorgum có thể ảnh hưởng đến các quá trình sinh học quan trọng liên quan đến bệnh tiểu đường và kháng insulin. Kết quả này phân biệt các loại trấu sorgum chọn lọc với các loại trấu thực phẩm thông thường và gợi ý một lý do dược phẩm cho việc tiêu thụ nó ở con người. Bản quyền © 2008 John Wiley & Sons, Ltd.

Tác dụng chống u của Osthol từCnidium monnieri: nghiên cứuin vitroin vivo Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 21 Số 3 - Trang 226-230 - 2007
Szu‐Yuan Chou, Chun‐Sen Hsu, Kun‐Teng Wang, M. Wang, Ching‐Chiung Wang
Tóm tắt

Cnidium monnieri(L.) Cusson là một loại thuốc trong y học cổ truyền Trung Quốc, được sử dụng rộng rãi bởi các bác sĩ y học cổ truyền. Osthol là một hợp chất có hoạt tính sinh học chính của thảo dược này. Trong nghiên cứu này, osthol đã được tách chiết từC. monnierivà các tác dụng chống u in vitroin vivocủa nó đã được nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu in vitrocho thấy: osthol ức chế sự phát triển của tế bào HeLa theo hình thức phụ thuộc vào thời gian và nồng độ, với giá trị IC50lần lượt là 77,96 và 64,94 µmcho 24 và 48 giờ; osthol có tác động độc tế bào thấp hơn đối với các tế bào fibroblast cổ tử cung bình thường nuôi cấy ban đầu; và sự gia tăng phân mảnh DNA và kích hoạt PARP trong tế bào HeLa sau khi điều trị bằng osthol, điều này có thể gây ra quá trình apoptosis. Kết quả từ mô hình in vivocho thấy thời gian sống của chuột CDF1mang khối u P‐388 D1 đã được kéo dài (ILS% = 37) sau khi được điều trị osthol (30 mg/kg) mỗi ngày một lần trong 9 ngày. Dựa trên các kết quả này, có thể gợi ý rằng osthol có thể ức chế các tế bào P‐388 D1 in vivovà gây ra quá trình apoptosis trong tế bào HeLa in vitro, đồng thời osthol là một hợp chất tiềm năng để phát triển thuốc chống ung thư. Tuy nhiên, C. formosanumYabe của các loài thực vật đặc hữu Đài Loan chứa rất ít osthol, không có imperatorin, và các thành phần chính của nó khác với C. monnieri. Do đó, cần gợi ý rằng C. formosanumcũng có thể có giá trị kinh tế. Bản quyền © 2006 John Wiley & Sons, Ltd.

Quercetin và naringenin; tác động đến sự hình thành loét và bài tiết dạ dày ở chuột Dịch bởi AI
Phytotherapy Research - Tập 7 Số 2 - Trang 150-153 - 1993
María J. Martín, Virginia Motilva, C. Alarc ÓN de la Lastra
Tóm tắt

Hiệu ứng chống loét của hai flavonoid, quercetin và naringenin, trong loét dạ dày cấp tính (giới hạn lạnh và thắt môn vị) đã được nghiên cứu. Trong cả hai mô hình, quercetin và naringenin đều cho thấy sự giảm đáng kể chỉ số loét so với nhóm đối chứng. Tuy nhiên, trong phương pháp thắt Shay không có sự giảm nào về thể tích, độ axit hay pepsin được quan sát, tuy nhiên, một sự khác biệt đáng kể đã được tìm thấy trong giá trị bài tiết histamin.

Amelioration of oxidative stress in red blood cells from patients with β‐thalassemia major and intermedia and E‐β‐thalassemia following administration of a fermented papaya preparation
Phytotherapy Research - Tập 24 Số 9 - Trang 1334-1338 - 2010
Eitan Fibach, Ee‐Shien Tan, Saumya Shekhar Jamuar, Ivy Ng, Johnny Amer, Eliezer A. Rachmilewitz
Abstract

In β‐hemoglobinopathies, such as β‐thalassemia (thal) and sickle cell anemia, the primary defects are mutations in the β‐globin gene. However, many aspects of the pathophysiology are mediated by oxidative stress. Fermented papaya preparation (FPP), a natural health food product obtained by biofermentation of carica papaya, has been shown to limit oxidative stress both in vitro and in vivo. We studied the effect of FPP on two groups of β‐thal patients: β‐thal, major and intermedia, (in Israel) and E‐β‐thal (in Singapore). The results indicated that in both groups FPP treatment increased the content of reduced glutathione (GSH) in red blood cells (RBC), and decreased their reactive oxygen species (ROS) generation, membrane lipid peroxidation, and externalization of phosphatidylserine (PS), indicating amelioration of their oxidative status, without a significant change in the hematological parameters. Since the turnover of the erythron is relatively slow, it is possible that longer duration of treatment, probably with the addition of an iron chelator, is required in order to achieve the latter goals. Copyright © 2010 John Wiley & Sons, Ltd.

Tổng số: 104   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10