
Life
SCOPUS (2011-2023)SCIE-ISI
2075-1729
Thụy Sĩ
Cơ quản chủ quản: Multidisciplinary Digital Publishing Institute (MDPI) , MDPI
Các bài báo tiêu biểu
Infectious disease (ID) is one of the top-most serious threats to human health globally, further aggravated by antimicrobial resistance and lack of novel immunization options. Andrographis paniculata (Burm. f.) Wall. ex Nees and its metabolites have been long used to treat IDs. Andrographolide, derived from A. paniculata, can inhibit invasive microbes virulence factors and regulate the host immunity. Controlled clinical trials revealed that A. paniculata treatment is safe and efficacious for acute respiratory tract infections like common cold and sinusitis. Hence, A. paniculata, mainly andrographolide, could be considered as an excellent candidate for antimicrobial drug development. Considering the importance, medicinal values, and significant role as antimicrobial agents, this study critically evaluated the antimicrobial therapeutic potency of A. paniculata and its metabolites, focusing on the mechanism of action in inhibiting invasive microbes and biofilm formation. A critical evaluation of the secondary metabolites with the aim of identifying pure compounds that possess antimicrobial functions has further added significant values to this study. Notwithstanding that A. paniculata is a promising source of antimicrobial agents and safe treatment for IDs, further empirical research is warranted.
Các dấu vết kim loại là cần thiết cho các quá trình sinh hóa cơ bản, như quang hợp và hô hấp. Cân bằng kim loại của vi tảo lam giữ vai trò quan trọng vì máy quang hợp yêu cầu một lượng lớn kim loại, khiến chúng trở thành yếu tố hạn chế đối với vi tảo lam, đặc biệt là ở các đại dương mở. Mặt khác, trong hai thế kỷ qua, nồng độ kim loại trong môi trường biển và trầm tích hồ đã tăng lên do một số hoạt động công nghiệp. Trong tất cả các trường hợp, tế bào phải điều chỉnh việc hấp thụ một cách chặt chẽ để duy trì nồng độ nội bào dưới ngưỡng độc hại. Các cơ chế để thu hoạch kim loại trong điều kiện hạn chế và bảo vệ tế bào khỏi lượng kim loại dư thừa đều có mặt ở vi tảo lam. Hiểu biết về sự cân bằng kim loại trong vi tảo lam và các protein tham gia sẽ giúp đánh giá việc sử dụng những vi sinh vật này trong việc khử độc kim loại. Hơn nữa, điều này cũng sẽ giúp hiểu cách mà tính khả dụng của kim loại ảnh hưởng đến sản xuất sơ cấp trong đại dương. Trong bài tổng quan này, chúng tôi sẽ tập trung vào sự trao đổi đồng, niken, cobalt và asen (một loại kim loại độc) , mà chủ yếu đã được phân tích ở loài vi tảo lam mô hình Synechocystis sp. PCC 6803.
Bromelain is an effective chemoresponsive proteolytic enzyme derived from pineapple stems. It contains several thiol endopeptidases and is extracted and purified via several methods. It is most commonly used as an anti-inflammatory agent, though scientists have also discovered its potential as an anticancer and antimicrobial agent. It has been reported as having positive effects on the respiratory, digestive, and circulatory systems, and potentially on the immune system. It is a natural remedy for easing arthritis symptoms, including joint pain and stiffness. This review details bromelain’s varied uses in healthcare, its low toxicity, and its relationship to nanoparticles. The door of infinite possibilities will be opened up if further extensive research is carried out on this pineapple-derived enzyme.
The red seaweed group (Rhodophyta) is one of the phyla of macroalgae, among the groups Phaeophyceae and Chlorophyta, brown and green seaweeds, respectively. Nowadays, all groups of macroalgae are getting the attention of the scientific community due to the bioactive substances they produce. Several macroalgae products have exceptional properties with nutraceutical, pharmacological, and biomedical interest. The main compounds studied are the fatty acids, pigments, phenols, and polysaccharides. Polysaccharides are the most exploited molecules, which are already widely used in various industries and are, presently, entering into more advanced applications from the therapeutic point of view. The focuses of this review are the red seaweeds’ compounds, its proprieties, and its uses. Moreover, this work discusses new possible applications of the compounds of the red seaweeds.
Lepidagathis hyalina Nees is used locally in Ayurvedic medicine to treat coughs and cardiovascular diseases. This study explored its pharmacological potential through in vivo and in vitro approaches for the metabolites extracted (methanolic) from the stems of L. hyalina. A qualitative phytochemical analysis revealed the presence of numerous secondary metabolites. The methanol extract of L. hyalina stems (MELHS) showed a strong antioxidative activity in the 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl (DPPH) and reducing power assays, and in the quantitative (phenolic and flavonoid) assay. Clot lysis and brine shrimp lethality bioassays were applied to investigate the thrombolytic and cytotoxic activities, respectively. MELHS exhibited an expressive percentage of clot lysis (33.98%) with a moderately toxic (115.11 μg/mL) effect. The in vivo anxiolytic activity was studied by an elevated plus maze test, whereas the antidepressant activity was examined by a tail suspension test and forced swimming test. During the anxiolytic evaluation, MELHS exhibited a significant dose-dependent reduction of anxiety, in which the 400 mg/kg dose of the extract showed 78.77 ± 4.42% time spent in the open arm in the elevated plus maze test. In addition, MELHS demonstrated dose-dependent and significant activities in the tail suspension test and forced swimming test, whereas the 400 mg/kg dose of the extract showed 87.67 ± 6.40% and 83.33 ± 6.39% inhibition of immobile time, respectively. Therefore, the current study suggests that L. hyalina could be a potential source of anti-oxidative, cytotoxic, thrombolytic, anxiolytic, and antidepressant agents. Further study is needed to determine the mechanism behind the bioactivities.
Hiệu quả điều trị của một loại thuốc hoặc các tác dụng không mong muốn không dự đoán được của nó có thể phụ thuộc vào việc sử dụng đồng thời một loại cây thuốc. Cụ thể, các thành phần trong chiết xuất cây thuốc có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh khả dụng, chuyển hóa và thời gian bán hủy của thuốc, dẫn đến độc tính của thuốc hoặc không đạt được phản ứng điều trị. Bài tổng quan này tập trung vào các nghiên cứu lâm sàng nhằm nâng cao nhận thức về khả năng của những thuốc thảo dược được chọn lựa để ảnh hưởng đến dược động học của các thuốc cùng được sử dụng. Hơn nữa, các nghiên cứu in vitro có thể hữu ích để dự đoán các tương tác giữa thuốc thảo dược và thuốc. Cụ thể, chúng giúp làm sáng tỏ các mục tiêu tế bào (protein chuyển hóa hoặc protein vận chuyển) và cơ chế (kích thích hoặc ức chế) mà một thành phần đơn lẻ của thuốc thảo dược tác động. Các tác giả làm nổi bật những khó khăn trong việc dự đoán các tương tác thuốc thảo dược từ dữ liệu in vitro, trong trường hợp nồng độ cao của các chiết xuất hoặc các thành phần của chúng được sử dụng và dược động học không được xem xét. Ngoài ra, cũng thảo luận về khó khăn trong việc so sánh kết quả từ các nghiên cứu trên người khi có các loại chiết xuất thảo dược khác nhau được sử dụng. Các thuốc thảo dược được thảo luận là trong số những sản phẩm bán chạy nhất và được ghi nhận trong phần "Thuốc Thảo Dược Để Sử Dụng Ở Người" của Cơ Quan Dược Phẩm Châu Âu (EMA).
Bài tổng quan này nhằm ghi nhận tình trạng viêm nội nhãn tự phát do Klebsiella pneumoniae (Kp) siêu độc lực (hvKp) mới nổi, xem xét về tỷ lệ, đặc điểm vi sinh vật của tác nhân gây bệnh, các yếu tố nguy cơ liên quan, cách quản lý và kết quả điều trị. Các chủng hvKp gây ra áp xe gan xâm lấn (LA) với các triệu chứng lâm sàng đặc trưng. Từ 80–90% số trường hợp có áp xe gan làm tiêu điểm chính của nhiễm trùng, tiếp theo là nhiễm trùng hvKp ở thận hoặc phổi. Tuy nhiên, tỷ lệ viêm nội nhãn tự phát ở bệnh nhân mắc KPLA dao động từ 3.4% (19) đến 12.6% (13), với tổng số 95 trường hợp viêm nội nhãn trong 1455 trường hợp KPLA (6.5%). Mất thị lực nghiêm trọng được ghi nhận trong 75% số trường hợp, với 25% có tổn thương hai bên. Kháng sinh nội nhãn là phương pháp điều trị chính. Phẫu thuật lấy dịch kính qua đường kính phía sau là một vấn đề gây tranh cãi. Các chủng hvKp hầu hết biểu hiện kiểu kháng thuốc tự nhiên “hoang dã” gợi ý cho các nhiễm trùng mắc phải trong cộng đồng, rất nhạy cảm với thế hệ cephalosporin thứ ba và thứ tư cũng như carbapenem. Kháng kháng sinh ở các chủng siêu độc lực mới đây đã được ghi nhận thông qua quá trình chuyển gen plasmid và có thể dẫn đến các trường hợp rất khó điều trị. Sự lan truyền toàn cầu của các chủng này là một thay đổi dịch tễ học lớn cần được xem xét trong quản lý chẩn đoán và điều trị bệnh nhân viêm nội nhãn tự phát. Sàng lọc nhãn khoa ở những bệnh nhân mắc KPLA và các nhiễm trùng hvKp khác cùng với một phương pháp điều trị đa ngành là vô cùng quan trọng cho chẩn đoán sớm và bảo tồn chức năng thị lực.
Syzygium fruticosum (SF), a valuable Bangladeshi fruit, is considered an alternative therapeutic agent. Mainly, seeds are used as nutritional phytotherapy to ease physical and mental status by preventing chronic diseases. Here, we scrutinized the S. fruticosum seed’s fundamental importance in traditional medicine by following an integrated approach combining in vivo, in vitro, and in silico studies. The SF was fractionated with different solvents, and the ethyl acetate fraction of SF (EaF-SF) was further studied. Mice treated with EaF-SF (200 and 400 mg/kg) manifested anxiolysis evidenced by higher exploration in elevated plus maze and hole board tests. Similarly, a dose-dependent drop of immobility time in a forced swimming test ensured significant anti-depressant activity. Moreover, higher dose treatment exposed reduced exploratory behaviour resembling decreased movement and prolonged sleeping latency with a quick onset of sleep during the open field and thiopental-induced sleeping tests, respectively. In parallel, EaF-SF significantly (p < 0.001) and dose-dependently suppressed acetic acid and formalin-induced pain in mice. Also, a noteworthy anti-inflammatory activity and a substantial (p < 0.01) clot lysis activity (thrombolytic) was observed. Gas chromatography-mass spectrometry (GC–MS) analysis resulted in 49 bioactive compounds. Among them, 12 bioactive compounds with Lipinski’s rule and safety confirmation showed strong binding affinity (molecular docking) against the receptors of each model used. To conclude, the S. fruticosum seed is a prospective source of health-promoting effects that can be an excellent candidate for preventing degenerative diseases.
Dù có nhiều phương pháp điều trị cho ung thư, tỷ lệ tử vong vẫn không giảm. Việc chẩn đoán ung thư ở giai đoạn thứ tư và kháng thuốc là những lý do chính dẫn đến thất bại trong điều trị và tỷ lệ sống sót thấp hơn. Trong bài báo tổng quan này, chúng tôi tóm tắt những cạm bẫy có thể gặp phải trong quá trình điều trị ung thư nói chung, chủ yếu bao gồm kháng đa thuốc, và đề xuất một giả thuyết đặc biệt cho ung thư đại tràng. Chúng tôi cũng đánh giá kháng đa thuốc trong ung thư nói chung và ung thư đại tràng nói riêng và giả thuyết một khái niệm dựa trên trị liệu kết hợp với 5-fluorouracil, curcumin và lipid để quản lý ung thư đại tràng có thể. Thêm vào đó, một cách tiếp cận giả thuyết, kết hợp một tác nhân tổng hợp và một tác nhân hóa trị liệu tự nhiên, để điều trị ung thư đại tràng cũng được thảo luận. Giả thuyết này có thể cải thiện việc quản lý ung thư đại tràng.
Mặc dù suối nước nóng kiềm Hunter ở phía đông nam Oregon đã được nghiên cứu kỹ lưỡng trong hơn 40 năm, hầu hết các nghiên cứu và ấn phẩm sau đó đều được thực hiện trước khi có sự xuất hiện của các phương pháp phân tử. Tuy nhiên, có rất nhiều quan sát thực địa và thí nghiệm trong phòng thí nghiệm tiết lộ những khía cạnh chính của thành phần loài quang hợp trong các gradient vật lý và hóa học khác nhau của những suối này. Ranh giới nhiệt độ tương đối không đổi đánh dấu ranh giới trên của vi khuẩn lam đơn bào, Synechococcus ở 73–74 °C (giới hạn tối đa toàn cầu cho quá trình quang hợp), và 68–70 °C là giới hạn tối đa cho Chloroflexus. Giới hạn tối đa cho sự phủ sóng của vi khuẩn lam dạng sợi, Geitlerinema (Oscillatoria) là ở 54–55 °C, và giới hạn tối thiểu tại chỗ ở 47–48 °C cho cả ba loại quang hợp này do giới hạn nhiệt độ tối đa cho động vật ăn cỏ, Thermopsis. Giới hạn tối đa tại chỗ cho các vi khuẩn lam Pleurocapsa và Calothrix là khoảng 47–48 °C, chúng có khả năng chống chịu động vật ăn cỏ cao hơn và phụ thuộc vào động vật ăn cỏ. Tất cả những sự phân định này đều dễ dàng nhìn thấy trong thực địa. Thêm vào đó, có sự sản xuất biosulfide ở một số đoạn của các suối, điều này có tác động lớn đến vi sinh vật học. Hầu hết các giới hạn về nhiệt độ và hóa học đã được giải thích qua các thí nghiệm thực địa và trong phòng thí nghiệm.