
Journal of Indian Business Research
SCOPUS (2009-2023)ESCI-ISI
1755-4195
1755-4209
Anh Quốc
Cơ quản chủ quản: Emerald Group Publishing Ltd.
Các bài báo tiêu biểu
– Mục tiêu của bài báo này là cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định thái độ và ý định hành vi của khách hàng đối với việc sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến, đặc biệt chú ý đến vai trò của rủi ro nhận thức, niềm tin, sự hài lòng, thiết kế trang web và ảnh hưởng xã hội.
– Một mô hình nghiên cứu dựa trên mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) phản ánh các ảnh hưởng của niềm tin, rủi ro nhận thức, sự hài lòng, thiết kế trang web và ảnh hưởng xã hội đối với các cấu trúc TAM được đề xuất. Kỹ thuật mô hình cấu trúc phương trình được sử dụng để phân tích mẫu gồm 697 người dùng ngân hàng trực tuyến cá nhân ở Ấn Độ thông qua khảo sát trực tuyến.
– Kết quả phân tích dữ liệu xác nhận một số giả thuyết được rút ra từ tài liệu. Phù hợp với một số nghiên cứu khác, sự hữu dụng nhận thức, sự dễ sử dụng nhận thức, niềm tin và sự hài lòng nhận thức được tìm thấy là những yếu tố quyết định trực tiếp ngay lập tức của thái độ khách hàng đối với việc sử dụng ngân hàng trực tuyến. Thái độ, rủi ro nhận thức, sự hài lòng và niềm tin quyết định ý định hành vi của khách hàng sử dụng ngân hàng trực tuyến. Mặc dù ảnh hưởng trực tiếp của thiết kế trang web nhận thức chỉ đáng kể đối với sự dễ sử dụng nhận thức, nhưng ảnh hưởng gián tiếp của nó lại đáng kể đối với sự hữu dụng nhận thức, thái độ và ý định hành vi. Hơn nữa, sự hài lòng nhận thức tác động cả trực tiếp và gián tiếp lên sự hữu dụng nhận thức nhưng chỉ tác động trực tiếp lên sự dễ sử dụng nhận thức.
– Tính tổng quát của nghiên cứu này là một hạn chế thực tiễn trong các nghiên cứu người tiêu dùng và nghiên cứu này không phải là ngoại lệ đối với điều đó. Nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào một số yếu tố công nghệ, hành vi và thái độ và nhiều yếu tố đặc thù khách hàng và các yếu tố tâm lý và hành vi khác như chi phí, giá trị nhận thức, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng, có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về quá trình chấp nhận, không là một phần của phạm vi nghiên cứu.
– Nghiên cứu này chỉ ra các ứng dụng ở ba góc độ, đó là lý thuyết, phương pháp luận và quản lý. Hơn nữa, nghiên cứu này cung cấp các khuyến nghị thực tiễn để nâng cao niềm tin của khách hàng và hướng dẫn giảm thiểu rủi ro nhận thức. Ứng dụng quan trọng nhất cho ngành ngân hàng là ngoài việc cung cấp các dịch vụ có lợi và dễ sử dụng, họ cần xây dựng mối quan hệ tin cậy với khách hàng.
– Nghiên cứu này mở rộng khối lượng tài liệu hiện có về ngân hàng trực tuyến bằng cách tích hợp niềm tin và nhận thức rủi ro. Các ảnh hưởng của thiết kế trang web và sự hài lòng nhận thức lên việc chấp nhận ngân hàng trực tuyến đã được xem xét và được tìm thấy có ý nghĩa trong bối cảnh Ấn Độ. Ngoài ra, nó cho phép chúng tôi đóng góp vào tài liệu hiện tại về thị trường dịch vụ ngân hàng trực tuyến ở Ấn Độ, một thị trường chủ yếu chưa được nghiên cứu.
Mục đích của bài báo này là tiến hành một nghiên cứu tổng quan tài liệu toàn diện để đánh giá tình hình hiện tại về các thực hành bền vững của doanh nghiệp, cũng như những vấn đề và thách thức trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), và từ cơ sở tài liệu, đề xuất một mô hình có thể cải thiện và quản lý chiến lược các thực hành bền vững của họ trong bối cảnh thị trường mới nổi của châu Á.
Các tác giả đã thực hiện một phân tích tổng hợp các tài liệu từ các tạp chí học thuật có kiểm duyệt trong khoảng thời gian từ 1985-2016. Phương pháp mà các tác giả sử dụng là thông qua các mục báo cáo ưu tiên cho các đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp.
Tính bền vững của doanh nghiệp là một lĩnh vực được thực hiện tốt trong các tổ chức lớn. Tuy nhiên, tài liệu cho thấy đối với SMEs, tình hình lại khác. Các thực hành xã hội và môi trường thường bị bỏ qua ở SMEs, đặc biệt là trong các thị trường mới nổi. Tài liệu hiện có đề cập rằng mô hình hợp tác trong hoạt động, chính sách và hỗ trợ của chính phủ cùng với văn hóa tổ chức hỗ trợ có thể ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất bền vững của SMEs và do đó cải thiện hiệu suất tài chính của họ.
Phần lớn các bài báo trong tài liệu về tính bền vững doanh nghiệp có tính chất định tính và không có bằng chứng thực nghiệm để thiết lập mối quan hệ này trong bối cảnh SMEs. Bài báo này cố gắng khái niệm hóa sự tồn tại của một khung có thể có liên quan đến các yếu tố bền vững và vai trò của chúng trong việc cải thiện hiệu suất kinh doanh của SMEs. Tuy nhiên, các phát hiện hoàn toàn dựa vào tài liệu và khảo sát cũng chỉ được thực hiện trên 20 SMEs ở một địa lý cụ thể. Đây là một mẫu rất nhỏ và cũng có thể bị thiên lệch. Các nghiên cứu trong tương lai dựa trên bài báo này được kỳ vọng sẽ xác minh mối quan hệ đề xuất với một tập dữ liệu lớn hơn phục vụ cho các cụm ngành khác nhau và các quốc gia khác nhau.
Mục đích của bài báo này là xem xét ảnh hưởng của sự nhận thức của khách hàng khác (OCP) (Brocato
Theo một phương pháp lý thuyết, các giả thuyết đã được phát triển để phân tích ảnh hưởng của OCP, mức độ tham gia trong dịch vụ và NFU của khách hàng. Một thí nghiệm dựa trên kịch bản 2 × 2 × 2 đã được thiết kế. Phân tích phương sai đa biến (MANOVA) đã được sử dụng để kiểm tra các giả thuyết.
Phân tích cho thấy rằng sự hiện diện của các khách hàng khác tuân thủ (so với không tuân thủ) cải thiện nhận thức về chất lượng dịch vụ và ý định quay lại của khách hàng mục tiêu trong dịch vụ có mức độ tham gia cao, nhưng không phải trong dịch vụ có mức độ tham gia thấp. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nhận thức về sự tương đồng và các biến kết quả không đúng với khách hàng có NFU cao.
Nghiên cứu này gợi ý rằng các khách hàng khác tuân thủ và không tuân thủ là rất quan trọng trong việc hình thành nhận thức về chất lượng dịch vụ của các dịch vụ có mức độ tham gia cao, và nhấn mạnh điều kiện biên của mối quan hệ này. Nếu các nhà quản lý dịch vụ xem xét mức độ tham gia dịch vụ và sự khác biệt cá nhân, và lập chiến lược dịch vụ của họ phù hợp với khách hàng mục tiêu, ảnh hưởng của các khách hàng khác có thể được quản lý hiệu quả hơn.
Vì nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên tập trung vào ảnh hưởng của OCP đến nhận thức về chất lượng dịch vụ và xem xét điều kiện biên của nó, nghiên cứu góp phần một cách đáng kể vào kho kiến thức. Các hướng nghiên cứu trong tương lai được thảo luận và các ứng dụng quản lý được đề xuất.
Mục đích của bài báo này là cung cấp một bức tranh về sự phát triển công nghiệp khu vực trong bối cảnh cạnh tranh giữa các bang Ấn Độ để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa. Kết quả cho thấy có xu hướng tập trung các hoạt động sản xuất ngay cả trong thời kỳ cải cách.
Nỗ lực này nhằm so sánh các xu hướng từ năm 1991 với thập kỷ trước đó và giải mã mức độ hiệu quả của các thay đổi chính sách trong việc phân bổ hoạt động công nghiệp theo khu vực.
Bài báo cho thấy hoạt động sản xuất có tổ chức tập trung ở một số bang. Những người đi đầu vẫn tiếp tục thống trị, nắm giữ một phần lớn đầu tư và sản xuất công nghiệp quốc gia. Ngay cả trong thời kỳ cải cách thị trường, xu hướng này vẫn tiếp tục duy trì. Điều này chỉ ra một mức độ "phụ thuộc vào con đường" trong quá trình công nghiệp hóa của nền kinh tế. Dường như có sự phân tán nhẹ của các hoạt động trong phân khúc không tổ chức. Các hình thức tổ chức sản xuất mới đã thúc đẩy sự phát triển công nghiệp trong phân khúc không tổ chức. Tuy nhiên, các khu vực thống trị trong phân khúc có tổ chức đã có thể gia tăng tỷ lệ giá trị gia tăng từ phân khúc không tổ chức.
Có rất ít nghiên cứu xem xét mức độ hiệu quả của các thay đổi chính sách trong việc phân bổ hoạt động công nghiệp theo khu vực.
Mục đích của bài báo này là xây dựng một mô hình kiến trúc thương hiệu để quảng bá Ấn Độ như một điểm đến du lịch, đi kèm với sự đa dạng của các sản phẩm du lịch và các bang/khu vực.
Phương pháp chính được áp dụng là phân tích diễn ngôn và lập luận. Các ví dụ có liên quan từ các quốc gia khác đã được sử dụng làm tư liệu. Các khái niệm kiến trúc thương hiệu được sử dụng trong quá trình phân tích.
Bộ du lịch của Chính phủ Ấn Độ đã quảng bá quốc gia như một thương hiệu thống nhất với câu khẩu hiệu “Ấn Độ tuyệt vời” trong suốt bảy năm qua. Cách tiếp cận này cho đến nay đã khá thành công. Tuy nhiên, để duy trì đà phát triển, bài báo đề xuất việc chuyển giao sang một mô hình kiến trúc thương hiệu thống nhất với một hệ thống các thương hiệu liên kết tốt với nhau. Ở đỉnh cao sẽ là “Ấn Độ” như thương hiệu chính, sẽ bảo trợ cho các thương hiệu phụ dọc theo hai chiều chính – các danh mục sản phẩm du lịch và các khu vực/bang địa lý. Những khát vọng khu vực do đó sẽ được tiếp nhận. Đồng thời, Ấn Độ và những thành phần đa dạng của nó có thể được quảng bá theo một cách có cấu trúc với sự rõ ràng và tập trung hơn.
Mục đích của bài báo này là mô tả khái niệm "Chủ nghĩa tư bản có ý thức," đề cập đến một cách tiếp cận mới và sâu sắc hơn về mục đích và quản lý doanh nghiệp.
Bài báo mô tả cách bối cảnh kinh doanh đã thay đổi theo những cách cơ bản trong hai thập kỷ qua, đòi hỏi một cách tiếp cận mới đối với kinh doanh phản ánh mức độ ý thức ngày càng gia tăng của khách hàng và nhân viên, cũng như những thách thức đa dạng và ngày càng sâu sắc mà thế giới hiện nay đang đối mặt. Doanh nghiệp cần phải đứng về phía xã hội thay vì tiếp tục gánh thêm những gánh nặng cho xã hội, như quá thường lệ. Chủ nghĩa tư bản có ý thức không đồng nghĩa với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR); khi xã hội được coi là một cổ đông quan trọng, thậm chí là cổ đông chính, thì bản chất của doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm xã hội. Một cách tiếp cận có ý thức đối với kinh doanh dựa trên việc thông qua một mục đích cao hơn vượt ra ngoài lợi nhuận, định hướng cổ đông thay vì cổ đông và lãnh đạo phục vụ có ý thức.
The purpose of this paper is to examine the direction of causality between foreign institutional investment (FII) trading volume and stock market returns in the Indian context. There is evidence of uni‐directional causalities from stock returns to FII flows across various sample periods. The paper attempts to establish whether net FII trading volume causes variations in stock market returns or vice versa.
Using daily data on three different measures of FII trading volume as proxy for FII trading behaviour and S&P CNX Nifty returns, Granger‐causality approach is applied to investigate the bi‐directional causality between net FII trades and returns.
Bi‐directional causality between net FII investment and Indian stock market return is observed. In general, the FIIs seem to be chasing the Indian stock market returns. It is found that FII trading behaviour resulting in heavy trading volumes may cause variations in stock market returns only in the very short‐term, but afterwards, it is the stock market returns which cause changes in FII trading behaviour.
Since foreign equity investors monitor the movement of stock prices, and furthermore, the role of FIIs' exerting impact on Indian stock markets tends to be growing, the authorities will have to develop an environment where FIIs would maintain their positions with confidence, thereby making the markets, as well as investments, more stable. This research considered only stock market returns to test its relationship with three measures of FII trading volume; more macroeconomic as well as microeconomic variables may further be considered for the purpose.
The paper contributes some empirical evidence using three different measures of FII trading volume as proxy of FII trading behaviour, and its bi‐directional relationship with Indian stock market returns.
Mục đích của bài báo này là điều tra các nền tảng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và các phương thức giao tiếp xung quanh những nền tảng đó tại Ấn Độ. Nó nhằm thiết lập các nền tảng CSR thường được sử dụng, cùng với thái độ của các bên liên quan đối với cả hình thức và nội dung của những nền tảng này.
Bài báo tham khảo cả nguồn dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, tức là khảo sát các nguồn dữ liệu trên internet và khảo sát bằng bảng hỏi.
Bài báo cho thấy rằng các công ty Ấn Độ được khảo sát chủ yếu theo đuổi một nền tảng từ thiện với sự tập trung vào các dự án phát triển cộng đồng, như dự đoán từ các nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên, nó cũng chỉ ra rằng người tiêu dùng Ấn Độ có thể không đánh giá cao CSR từ thiện bằng các sáng kiến CSR khác và điều này có thể ảnh hưởng đến thái độ của họ đối với các chiến lược giao tiếp marketing khác nhau.
Bài báo gợi ý các cách mà các công ty Ấn Độ có thể định hình hình thức và nội dung của các chính sách CSR của họ trong tương lai trong một chiến lược marketing nhằm tác động tích cực đến các bên liên quan và tăng cường lợi thế cạnh tranh của họ.
Bài báo cung cấp một cách tiếp cận sáng tạo để điều tra những hậu quả của việc các công ty Ấn Độ giao tiếp chính sách CSR của họ với các bên liên quan. Nó gợi ý một số lĩnh vực nghiên cứu khả thi với những tác động trực tiếp đến doanh nghiệp Ấn Độ trong tương lai.
The purpose of this paper is to explain the concept of the “call center couple” (CCC) as a symbol of the new middle class (NMC) and how it will influence markets, work, and family in India.
The paper focuses on the demographic shifts taking place in India's urban centres.
The rise of the NMC will forever democratize the family and employment markets.
The paper provides insights into the emerging middle class through the experiences of “CCCs”.