Journal of Indian Business Research
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
The purpose of this paper is to examine the direction of causality between foreign institutional investment (FII) trading volume and stock market returns in the Indian context. There is evidence of uni‐directional causalities from stock returns to FII flows across various sample periods. The paper attempts to establish whether net FII trading volume causes variations in stock market returns or vice versa.
Using daily data on three different measures of FII trading volume as proxy for FII trading behaviour and S&P CNX Nifty returns, Granger‐causality approach is applied to investigate the bi‐directional causality between net FII trades and returns.
Bi‐directional causality between net FII investment and Indian stock market return is observed. In general, the FIIs seem to be chasing the Indian stock market returns. It is found that FII trading behaviour resulting in heavy trading volumes may cause variations in stock market returns only in the very short‐term, but afterwards, it is the stock market returns which cause changes in FII trading behaviour.
Since foreign equity investors monitor the movement of stock prices, and furthermore, the role of FIIs' exerting impact on Indian stock markets tends to be growing, the authorities will have to develop an environment where FIIs would maintain their positions with confidence, thereby making the markets, as well as investments, more stable. This research considered only stock market returns to test its relationship with three measures of FII trading volume; more macroeconomic as well as microeconomic variables may further be considered for the purpose.
The paper contributes some empirical evidence using three different measures of FII trading volume as proxy of FII trading behaviour, and its bi‐directional relationship with Indian stock market returns.
The aim of this paper is to examine how the relationship between performance pressure and unwillingness to report ethical infractions of peers is mediated by moral disengagement, while considering organizational cynicism as a moderator in the mediating relationship.
Data collected from 302 managers working in public, private and multinational companies were used to test a model employing a moderated mediation analysis. The strength of the indirect effects of performance pressure on peer reporting via moral disengagement was found to depend on organizational cynicism when tested using a generalized approach to simultaneously test combined, moderation and meditation effects as suggested by Edwards and Lambert.
Path analytic tests of moderated mediation supported the hypothesis that moral disengagement mediates the relationship between performance pressure and unwillingness to report ethical infractions by peers and that the mediation effect is stronger in the presence of higher organizational cynicism. Implications are drawn for organizations.
This is believed to be one of the first studies on organizational cynicism and moral disengagement experienced by managers in India. Further, the application of moderated mediation analysis demonstrates the combination of moral disengagement and organizational cynicism in a theoretically interesting way. In the context of the continued unwillingness of employees to report ethical infractions of their peers, these results may shed additional light on appropriate courses of action for organizations.
Mục đích của bài báo này là mô tả khái niệm "Chủ nghĩa tư bản có ý thức," đề cập đến một cách tiếp cận mới và sâu sắc hơn về mục đích và quản lý doanh nghiệp.
Bài báo mô tả cách bối cảnh kinh doanh đã thay đổi theo những cách cơ bản trong hai thập kỷ qua, đòi hỏi một cách tiếp cận mới đối với kinh doanh phản ánh mức độ ý thức ngày càng gia tăng của khách hàng và nhân viên, cũng như những thách thức đa dạng và ngày càng sâu sắc mà thế giới hiện nay đang đối mặt. Doanh nghiệp cần phải đứng về phía xã hội thay vì tiếp tục gánh thêm những gánh nặng cho xã hội, như quá thường lệ. Chủ nghĩa tư bản có ý thức không đồng nghĩa với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR); khi xã hội được coi là một cổ đông quan trọng, thậm chí là cổ đông chính, thì bản chất của doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm xã hội. Một cách tiếp cận có ý thức đối với kinh doanh dựa trên việc thông qua một mục đích cao hơn vượt ra ngoài lợi nhuận, định hướng cổ đông thay vì cổ đông và lãnh đạo phục vụ có ý thức.
The purpose of this paper is to examine the harmful effects of framing and suggests ways to improve decisions.
The paper uses a number of real life examples of catastrophic failures of decision making by obviously intelligent and experienced people and compares them with less dramatic but common errors of judgement most people make. The way a problem is presented often determines the choices we make and that we are inconsistent. It explains this phenomenon using Kahneman and Tversky's Nobel Prize winning work in behavioural economics.
All human beings are susceptible to decision flaws from framing. It is possible to recognise signs of the way we may be framing a decision situation and adopt strategies to sidestep the hazards of wrong choice.
By adopting methods suggested in this paper, individuals can make better decisions in everyday life. Managers can make appropriate choices rather than take too little risk or too much. Organisations can train senior managers in decision strategies and adopt group processes that reduce the risk of flawed decisions.
The paper provides insight into errors all human beings are prone to, no matter how intelligent or experienced they are. Using everyday examples Indian managers are familiar with, the paper highlights the need to improve thinking.
The purpose of this paper is to explain the concept of the “call center couple” (CCC) as a symbol of the new middle class (NMC) and how it will influence markets, work, and family in India.
The paper focuses on the demographic shifts taking place in India's urban centres.
The rise of the NMC will forever democratize the family and employment markets.
The paper provides insights into the emerging middle class through the experiences of “CCCs”.
Mục đích của bài báo này là điều tra các nền tảng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và các phương thức giao tiếp xung quanh những nền tảng đó tại Ấn Độ. Nó nhằm thiết lập các nền tảng CSR thường được sử dụng, cùng với thái độ của các bên liên quan đối với cả hình thức và nội dung của những nền tảng này.
Bài báo tham khảo cả nguồn dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, tức là khảo sát các nguồn dữ liệu trên internet và khảo sát bằng bảng hỏi.
Bài báo cho thấy rằng các công ty Ấn Độ được khảo sát chủ yếu theo đuổi một nền tảng từ thiện với sự tập trung vào các dự án phát triển cộng đồng, như dự đoán từ các nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên, nó cũng chỉ ra rằng người tiêu dùng Ấn Độ có thể không đánh giá cao CSR từ thiện bằng các sáng kiến CSR khác và điều này có thể ảnh hưởng đến thái độ của họ đối với các chiến lược giao tiếp marketing khác nhau.
Bài báo gợi ý các cách mà các công ty Ấn Độ có thể định hình hình thức và nội dung của các chính sách CSR của họ trong tương lai trong một chiến lược marketing nhằm tác động tích cực đến các bên liên quan và tăng cường lợi thế cạnh tranh của họ.
Bài báo cung cấp một cách tiếp cận sáng tạo để điều tra những hậu quả của việc các công ty Ấn Độ giao tiếp chính sách CSR của họ với các bên liên quan. Nó gợi ý một số lĩnh vực nghiên cứu khả thi với những tác động trực tiếp đến doanh nghiệp Ấn Độ trong tương lai.
In the context of India's growth and development benchmarked against China, this paper aims to address two important research questions: How do the growth models and market potential of China and India compare? What are some policy lessons to be learned?
This paper presents a critical analysis and review of the empirical results.
While India has adopted policies that have stimulated consumer demand and fostered entrepreneurship, China has adopted policies that have encouraged resource‐mobilization. China's physical infrastructure, while impressive, may have come at the cost of social investments (e.g. primary and secondary education). Empirical result shows that social investments are important for an economy's sustained growth, more than incentives to attract foreign direct investments. While the structure of the economy appears to be more promising for India, there is one enigmatic issue yet to be understood: China's path of economic development (agriculture to industry to services) has been demonstrated to be viable but India's path of development (almost directly agrarian to services‐based) may or may not be viable (the jury is still out). Finally, data from China and India are not yet discriminating enough to answer the question: is growth driven by greater export‐import trade recommended for long‐term and stable growth?
This study shows that while China and India have adopted two different models of growth, India's model is likely to be more sustainable.
Mục đích của bài báo này là cung cấp một bức tranh về sự phát triển công nghiệp khu vực trong bối cảnh cạnh tranh giữa các bang Ấn Độ để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa. Kết quả cho thấy có xu hướng tập trung các hoạt động sản xuất ngay cả trong thời kỳ cải cách.
Nỗ lực này nhằm so sánh các xu hướng từ năm 1991 với thập kỷ trước đó và giải mã mức độ hiệu quả của các thay đổi chính sách trong việc phân bổ hoạt động công nghiệp theo khu vực.
Bài báo cho thấy hoạt động sản xuất có tổ chức tập trung ở một số bang. Những người đi đầu vẫn tiếp tục thống trị, nắm giữ một phần lớn đầu tư và sản xuất công nghiệp quốc gia. Ngay cả trong thời kỳ cải cách thị trường, xu hướng này vẫn tiếp tục duy trì. Điều này chỉ ra một mức độ "phụ thuộc vào con đường" trong quá trình công nghiệp hóa của nền kinh tế. Dường như có sự phân tán nhẹ của các hoạt động trong phân khúc không tổ chức. Các hình thức tổ chức sản xuất mới đã thúc đẩy sự phát triển công nghiệp trong phân khúc không tổ chức. Tuy nhiên, các khu vực thống trị trong phân khúc có tổ chức đã có thể gia tăng tỷ lệ giá trị gia tăng từ phân khúc không tổ chức.
Có rất ít nghiên cứu xem xét mức độ hiệu quả của các thay đổi chính sách trong việc phân bổ hoạt động công nghiệp theo khu vực.
Mục đích của bài báo này là xây dựng một mô hình kiến trúc thương hiệu để quảng bá Ấn Độ như một điểm đến du lịch, đi kèm với sự đa dạng của các sản phẩm du lịch và các bang/khu vực.
Phương pháp chính được áp dụng là phân tích diễn ngôn và lập luận. Các ví dụ có liên quan từ các quốc gia khác đã được sử dụng làm tư liệu. Các khái niệm kiến trúc thương hiệu được sử dụng trong quá trình phân tích.
Bộ du lịch của Chính phủ Ấn Độ đã quảng bá quốc gia như một thương hiệu thống nhất với câu khẩu hiệu “Ấn Độ tuyệt vời” trong suốt bảy năm qua. Cách tiếp cận này cho đến nay đã khá thành công. Tuy nhiên, để duy trì đà phát triển, bài báo đề xuất việc chuyển giao sang một mô hình kiến trúc thương hiệu thống nhất với một hệ thống các thương hiệu liên kết tốt với nhau. Ở đỉnh cao sẽ là “Ấn Độ” như thương hiệu chính, sẽ bảo trợ cho các thương hiệu phụ dọc theo hai chiều chính – các danh mục sản phẩm du lịch và các khu vực/bang địa lý. Những khát vọng khu vực do đó sẽ được tiếp nhận. Đồng thời, Ấn Độ và những thành phần đa dạng của nó có thể được quảng bá theo một cách có cấu trúc với sự rõ ràng và tập trung hơn.
Thương mại di động là một thuật ngữ rộng được sử dụng cho ngân hàng di động, đặt vé di động, phiếu giảm giá di động, mua sắm hàng hóa và dịch vụ bằng điện thoại di động. Xét về khả năng sử dụng di động và lối sống đang thay đổi của dân số Ấn Độ, nó có tiềm năng lớn. Mục đích của bài báo này là để điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng thương mại di động.
Đối với nghiên cứu này, một mô hình nghiên cứu đã được phát triển dựa trên các cấu trúc từ mô hình chấp nhận công nghệ và lý thuyết kháng cự đổi mới, cùng với việc xem xét tài liệu về nghiên cứu liên quan đến ý định sử dụng các công nghệ tương tự, sau đó được kiểm nghiệm thực nghiệm bằng phương pháp thống kê thế hệ thứ hai SEM.
Các yếu tố hữu ích cảm nhận, dễ sử dụng cảm nhận và ảnh hưởng xã hội được phát hiện là những chiều hướng quan trọng của sự sẵn sàng chấp nhận công nghệ để sử dụng thương mại di động, trong khi các điều kiện tạo thuận lợi không được phát hiện là quan trọng. Kết quả cũng chỉ ra rằng rủi ro tín nhiệm cảm nhận, được định nghĩa bởi rủi ro bảo mật và rủi ro quyền riêng tư, có mối liên hệ tiêu cực đáng kể với ý định hành vi, cho thấy rằng những lo ngại về bảo mật và quyền riêng tư là quan trọng trong việc ngăn cản khách hàng sử dụng thương mại di động.
Nghiên cứu này đã đề xuất và xác thực một cấu trúc mới - sự sẵn sàng chấp nhận công nghệ. Nghiên cứu phát triển một mô hình tích hợp cho ý định hành vi đối với các đổi mới tài chính.
Biết các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của khách hàng đối với thương mại di động và mối quan hệ giữa các yếu tố này, các ngân hàng, thương nhân và nhà cung cấp dịch vụ di động có thể phát triển chiến lược tiếp thị của họ để đảm bảo rằng mọi người sẽ sử dụng dịch vụ mới này. Điều này sẽ ảnh hưởng đến ý định hành vi và thay đổi các ý định này thành việc áp dụng thực tế công nghệ mới này.
Nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu thực nghiệm hiếm hoi điều tra việc áp dụng thương mại di động ở Ấn Độ, nơi được coi là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất về việc sử dụng điện thoại di động. Nghiên cứu liên quan đến việc bao gồm cả khía cạnh thực dụng và khía cạnh tín nhiệm của ý định áp dụng. Nó cung cấp một cơ sở thực nghiệm mà các công ty di động và ngân hàng có thể dựa vào để xây dựng chiến lược tiếp thị thanh toán di động của mình.
- 1
- 2