Journal of Digestive Diseases

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Kết quả lâm sàng của cắt bỏ niêm mạc qua nội soi đối với các khối u lan rộng bên liên quan đến đường răng cưa Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 20 Số 2 - Trang 83-88 - 2019
Hui Guo, Ting Ling, Lei Wang, Ying Lv, Xiao Qi Zhang, Tian Yang, Gui Fang Xu, Qi Sun, Ling Nie, Xiao Ping Zou
Mục tiêu

Cắt bỏ niêm mạc qua nội soi (ESD) cho các khối u lan rộng bên (LST) liên quan đến đường răng cưa (LST‐DL) là một thách thức do những đặc điểm giải phẫu cụ thể của trực tràng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của ESD cho LST‐DL.

Phương pháp

Các bệnh nhân liên tiếp có LST‐DL đã trải qua ESD tại bệnh viện của chúng tôi từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2015 đã được ghi nhận hồi cứu trong nghiên cứu này. Tỷ lệ cắt bỏ en bloc, tỷ lệ cắt bỏ R0, các biến chứng, đặc điểm bệnh lý và tái phát khối u đã được phân tích và so sánh với các LST trong trực tràng không liên quan đến đường răng cưa (LST‐NDL).

Kết quả

Tổng cộng có 49 bệnh nhân với LST‐DL (tuổi trung bình 63 tuổi; 39 nữ; kích thước tổn thương trung bình 57 mm; thời gian theo dõi trung bình 24 tháng) và 96 bệnh nhân với LST‐NDL (tuổi trung bình 67 tuổi; 31 nữ; kích thước tổn thương trung bình 47 mm; thời gian theo dõi trung bình 31 tháng) đã được ghi nhận. Tỷ lệ cắt bỏ en bloc (93.9% [46/49] so với 94.8% [91/96]) và tỷ lệ cắt bỏ en bloc R0 (83.7% [41/49] so với 88.5% [85/96]) cho LST‐DL và LST‐NDL, không có sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, ESD cho LST‐DL có thời gian thực hiện lâu hơn (77 phút so với 54 phút, P = 0.02), tỷ lệ đau quanh hậu môn sau thủ thuật cao hơn (28.6% so với 0%, P < 0.001), và nhiều trường hợp hẹp hậu môn hơn (4.1% so với 0%, P = 0.04). Tỷ lệ biến chứng như thủng, chảy máu và sốt, tỷ lệ tái phát, và các đặc điểm bệnh lý không có sự khác biệt giữa hai nhóm.

#cắt bỏ niêm mạc qua nội soi #khối u lan rộng bên #đường răng cưa #tỷ lệ cắt bỏ R0 #biến chứng #đau quanh hậu môn
Liệu chụp cộng hưởng từ khuếch tán có ưu thế hơn chụp PET-FDG hoặc PET-FDG/CT trong việc đánh giá và dự đoán phản ứng bệnh lý đối với liệu pháp tiền phẫu ở bệnh nhân ung thư trực tràng? Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 15 Số 10 - Trang 525-537 - 2014
Yu Lai Li, Lian Ming Wu, Xiao Xi Chen, Zachary DelProposto, Jia Hu, Jian Xu
Mục tiêu

Nghiên cứu tổng hợp này nhằm so sánh độ chính xác chẩn đoán của hình ảnh cộng hưởng từ khuếch tán (DW-MRI) và chụp positron phát ra từ fluorodeoxyglucose (FDG-PET) hoặc FDG-PET/cắt lớp vi tính (CT) trong việc đánh giá và dự đoán phản ứng bệnh lý đối với liệu pháp hóa xạ trị bổ trợ trước phẫu thuật (NCRT) ở bệnh nhân ung thư trực tràng.

Phương pháp

Một nghiên cứu tài liệu toàn diện đã được thực hiện để xác định các nghiên cứu liên quan cho tổng hợp này. Độ nhạy tổng hợp, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) và giá trị tiên đoán âm tính (NPV) đã được tính toán.

Kết quả

Tổng cộng có 33 nghiên cứu với 1564 bệnh nhân đáp ứng tiêu chí bao gồm. Độ nhạy tổng hợp (81% [95% CI 74–86%] so với 85% [95% CI 75–91%]) và NPV (80% [95% CI 68–89%] so với 91% [95% CI 80–95%]) của FDG-PET hoặc FDG-PET/CT thấp hơn đáng kể so với DW-MRI (P < 0.05). Không có sự khác biệt nào được quan sát thấy ở độ đặc hiệu và PPV tổng hợp giữa DW-MRI và FDG-PET hoặc FDG-PET/CT. Phân tích nhóm thêm cho thấy DW-MRI có độ nhạy cao hơn khi chỉ xem xét các khối u tuyến so với các khối u có bao gồm cả khối u tuyến nhầy (92% [95% CI 83–99%] so với 76% [95% CI 63–90%], P = 0.00).

Kết luận

DW-MRI vượt trội hơn FDG-PET hoặc FDG-PET/CT trong việc dự đoán và đánh giá các phản ứng bệnh lý đối với liệu pháp NCRT trước phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư trực tràng. Tuy nhiên, độ đặc hiệu và PPV tương đối thấp của nó hạn chế ứng dụng trong thực hành lâm sàng, khiến nó không phù hợp để theo dõi bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh nhân có khối u tuyến nhầy trực tràng.

Mối liên hệ giữa các đa hình gen trong gene yếu tố điều hòa interferon 5 (IRF5) và bệnh Crohn ở bệnh nhân Malaysia Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 16 Số 4 - Trang 205-216 - 2015
Kek Heng Chua, Lay-Hoong Lian, Wei Ching Khor, Way Seah Lee, Ida Hilmi, Khean‐Lee Goh, Boon Pin Kee
Mục tiêu

Nghiên cứu nhằm điều tra mối liên hệ giữa các đa hình gen của yếu tố điều hòa interferon 5 (IRF5) và sự khởi phát của bệnh Crohn (CD) ở một nhóm nghiên cứu tại Malaysia.

Phương pháp

DNA genomic được chiết xuất từ các mẫu máu thu thập từ 91 bệnh nhân CD và 100 cá nhân khỏe mạnh thông qua phương pháp chiết xuất phenol-chloroform truyền thống. Việc sàng lọc bốn đa hình nucleotide đơn (SNPs) mục tiêu, bao gồm rs3807306, rs4728142, rs10954213 và rs11770589 được thực hiện trong máy khuếch đại vòng polymerase thời gian thực (PCR) bằng cách sử dụng bộ xét nghiệm phân loại gen TaqMan. Dữ liệu gen thu được sau đó được phân tích thống kê để liên hệ các SNP với sự khởi phát của CD trong quần thể Malaysia. Thí nghiệm phân loại gen và dữ liệu được xác thực một cách chọn lọc bằng cách khuếch đại PCR thông thường cho các vị trí SNP và giải trình tự DNA.

Kết quả

Đ allele G của rs3807306 là yếu tố nguy cơ cho CD (OR 2.3630, P = 0.00004), trong khi kiểu gen đồng hợp tử T có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh (OR 0.2038, P = 0.00004). Kiểu gen dị hợp tử A/G của rs10954213 có sự liên kết đáng kể với CD (OR 4.319, P = 0.0377). Mặt khác, kiểu gen đồng hợp tử A và kiểu gen dị hợp tử A/G của rs11770589 có ý nghĩa ở nhóm đối chứng (OR 0.4242, P = 0.0166) và bệnh nhân (OR 2.000, P = 0.0179), tương ứng. Trong phân tích phân tầng sắc tộc, kiểu gen đồng hợp tử A của rs11770589 có tác dụng bảo vệ ở người Ấn Độ (OR 0.1551, P = 0.0112).

Kết luận

Các đa hình gen IRF5 có thể đóng vai trò trong sự phát triển của CD ở quần thể Malaysia.

Viêm do nhiệt và vai trò của nó trong ung thư thực quản Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 18 Số 8 - Trang 431-444 - 2017
Mohaddese Maghsudlu, Ehsan Farashahi Yazd

Ung thư thực quản, nguyên nhân thứ sáu phổ biến nhất gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới, bao gồm các loại mô học khác nhau và thể hiện các mẫu tỷ lệ mắc bệnh đa dạng. Ung thư biểu mô tuyến thực quản và ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản là hai loại phổ biến nhất. Các nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra rằng việc tiêu thụ các chất nóng là một yếu tố nguy cơ chính đối với ung thư biểu mô tế bào vảy, do đó việc đánh giá tác động của áp lực bên ngoài này lên tế bào thực quản là điều cần thiết. Loại áp lực này gây ra những thay đổi tế bào và làm ổn định chúng bằng cách ảnh hưởng đến các đặc điểm tế bào khác nhau như tính ổn định di truyền, tính toàn vẹn của màng và sự điều hòa của các con đường tín hiệu. Nó cũng gây tổn thương mô bằng cách ảnh hưởng đến ma trận ngoại bào và khả năng sống sót của tế bào. Do đó, một trong những hậu quả chính của tổn thương nhiệt là sự kích hoạt hệ thống miễn dịch, có thể dẫn đến viêm mãn tính. Sự thay đổi di truyền xảy ra trong quá trình tổn thương nhiệt và sự giảm chức năng của các hệ thống sửa chữa được củng cố thêm bởi viêm mãn tính, do đó tăng khả năng xuất hiện các dòng tế bào đột biến. Các phân tử có mặt trong hoàn cảnh này, chẳng hạn như protein sốc nhiệt, cytokine, chemokine và các yếu tố viêm khác, ảnh hưởng đến các con đường tín hiệu liên tế bào, bao gồm yếu tố nhân kappa‐light‐chain‐enhancer của tế bào B hoạt hóa, người truyền đạt tín hiệu kích hoạt phiên mã‐3 và yếu tố gây thiếu oxy 1α trong việc hỗ trợ sự sống sót và sự xuất hiện của các kiểu hình đột biến cũng như sự tiến triển ác tính tiếp theo trong các dòng tế bào bị thay đổi. Cuộc điều tra về các yếu tố hiệu quả này và vai trò có thể của chúng trong con đường sinh ung thư có thể cải thiện hiểu biết hiện tại.

Bốn loại Bifidobacteria kích hoạt phản ứng tự thực bú dưỡng trong các tế bào biểu mô ruột Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 15 Số 11 - Trang 597-605 - 2014
Rong Lin, Ye Jiang, Xin Yan Zhao, Yang Guan, Wei Qian, Xiao Chao Fu, Hun Yu Ren, Xiao Hua Hou
Mục tiêu

Nhằm điều tra tác động của vi khuẩn đường ruột lên việc kích hoạt tự thực (autophagy) trong các tế bào biểu mô ruột (IEC) và đánh giá phản ứng tự thực của IEC đối với các loại Bifidobacteria khác nhau.

Phương pháp

Các tế bào IEC-18 được điều trị với lipopolysaccharide (LPS) có nguồn gốc từ Escherichia coli gây bệnh đường ruột (EPEC) O127:B8 và dịch siêu nền của bốn loại Bifidobacteria. Độ kháng điện transepithelial (TEER) được đo bằng một volt-ohmmeter biểu mô. Tự thực được xác định thông qua kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM), tỷ lệ của LC3‐II so với LC3‐I và sự tồn tại của cả tín hiệu protein huỳnh quang xanh (GFP) và mCherry sử dụng cấu trúc tandem mCherry‐GFPLC3. Sự biểu hiện của phức hợp Atg12–Atg5–Atg16 được đo bằng phản ứng chuỗi polymerase thời gian thực định lượng.

#Bifidobacteria #tự thực #tế bào biểu mô ruột #vi khuẩn đường ruột #LPS #TEER
Chức năng tự động trong hội chứng ruột kích thích được đo bằng biến thiên nhịp tim: Một phân tích meta Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 14 Số 12 - Trang 638-646 - 2013
Qing Liu, Er Man Wang, Xiu Juan Yan, Sheng‐Liang Chen
Mục tiêu

Phân tích chức năng tự động được thể hiện qua thành phần tần số cao (HF), một phép đo của giọng dây thần kinh, và tỷ lệ tần số thấp (LF) so với HF (LF : HF), một chỉ số của sự cân bằng giữa giao cảm và đối giao cảm ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích (IBS).

Phương pháp

Chúng tôi đã xác định các nghiên cứu liên quan bằng cách thực hiện tìm kiếm tài liệu trên MEDLINE, EMBASEISI Web of Knowledge đến ngày 31 March 2013. Các kích thước hiệu ứng gộp với khoảng tin cậy 95% (CI) đã được tính toán bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên. Sự không đồng nhất giữa các nghiên cứu được đánh giá bằng cách sử dụng test Q và thống kê I2.

Kết quả

Tổng cộng có 11 bài báo gồm 392 bệnh nhân IBS và 263 đối chứng đã đáp ứng tiêu chí bao gồm của phân tích. Bệnh nhân IBS có công suất băng tần HF thấp hơn (Hedges's g = −0.38, 95% CI −0.68 đến −0.09) so với nhóm đối chứng (I2 = 63.6%, P = 0.003). Hơn nữa, bệnh nhân IBS cho thấy tỷ lệ LF : HF cao hơn (Hedges's g = 0.43, 95% CI 0.13–0.74), không có sự không đồng nhất đáng kể. Phân tích tiểu nhóm của chỉ số HF theo thời gian ghi lại cho kết quả khác nhau đối với bệnh nhân IBS và nhóm đối chứng. Thêm vào đó, bệnh nhân hội chứng ruột kích thích kiểu táo bón (IBSC) có công suất băng tần HF giảm, trong khi không tìm thấy sự khác biệt đáng kể ở tỷ lệ LF : HF.

Kết luận

Chức năng đối giao cảm bị suy giảm và sự mất cân bằng giao cảm – đối giao cảm bất thường có thể liên quan đến sinh bệnh học của IBS. Rối loạn dây thần kinh phế vị rõ ràng hơn trong tiểu nhóm IBSC.

#Hội chứng ruột kích thích #biến thiên nhịp tim #chức năng tự động #rối loạn dây thần kinh phế vị
Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan C cao ở tỉnh lớn nhất của Pakistan Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 9 Số 2 - Trang 95-103 - 2008
Muhammad Idrees, Amreek Lal, Muhammad Tahir Naseem, Muhammad Uzair Khalid

MỤC TIÊU:  Để ước tính tỷ lệ và phổ biến nhiễm virus viêm gan C (HCV) trong dân số chung của Pakistan.

PHƯƠNG PHÁP:  Tổng cộng 6817 mẫu máu đã được thu thập ngẫu nhiên từ những người có vẻ ngoài khỏe mạnh ở Punjab, Pakistan từ tháng 3 năm 1999 đến tháng 4 năm 2001 và từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007. Thông tin chi tiết về kinh tế - xã hội của mỗi người tham gia đã được ghi lại. Tất cả các mẫu đều được xét nghiệm để phát hiện kháng thể anti-HCV và tất cả các mẫu seropositive đều được kiểm tra thêm để xác định RNA HCV bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR).

KẾT QUẢ:  Trong tổng số 6817 mẫu huyết thanh được thử nghiệm, có 998 mẫu (14.63%) dương tính với kháng thể anti-HCV. RNA HCV PCA đã được phát hiện trong 494 mẫu (49.50%) dương tính với anti-HCV. Tỷ lệ kháng thể anti-HCV đáng kể cao hơn ở nam giới (15.09%) so với nữ giới (12.3%) (P < 0.009). Sự khác biệt đáng kể cũng được ghi nhận trong tỷ lệ nhiễm HCV giữa các nhóm tuổi khác nhau (P < 0.01). Trong phân tích hồi quy logistic đa biến, việc sử dụng ma túy tiêm (OR điều chỉnh 6.6 [95% CI 4.1–9.9]), truyền máu (OR điều chỉnh 5.9 [95% CI 2.9–12.3]), bị kim chích (OR điều chỉnh 2.2 [95% CI 1.6–3.1]), tái sử dụng ống tiêm (OR điều chỉnh 1.7 [95% CI 0.8–3.6]) và trên 35 tuổi (OR điều chỉnh 1.3 [95% CI 0.9–1.9]) là những yếu tố nguy cơ độc lập đối với việc nhiễm HCV.

KẾT LUẬN:  Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ seroprevalence cao của kháng thể anti-HCV trong dân số chung và có vẻ khỏe mạnh ở tỉnh Punjab của Pakistan. Tiêm chích ma túy, truyền máu và bị kim chích là những yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ nhất với việc nhiễm HCV.

2019 Novel coronavirus infection and gastrointestinal tract
Journal of Digestive Diseases - Tập 21 Số 3 - Trang 125-126 - 2020
Qin‐Yan Gao, Ying Xuan Chen, Jing‐Yuan Fang
Tổng số: 8   
  • 1