
European Journal of Hybrid Imaging
SCOPUS (2017-2023)ESCI-ISI
2510-3636
Cơ quản chủ quản: Springer Science and Business Media Deutschland GmbH , Springer Nature
Các bài báo tiêu biểu
Chụp cắt lớp phát xạ positron/ chụp cắt lớp vi tính (PET/CT) hiện đang là một trong những phương pháp hình ảnh chính cho bệnh nhân ung thư trên toàn thế giới. Fluorodeoxyglucose (FDG) PET/CT đã được công nhận toàn cầu trong việc quản lý bệnh nhân ung thư hiện đại và đang nhanh chóng trở thành một phương pháp hình ảnh quan trọng cho bệnh nhân mắc các tình trạng về tim mạch, thần kinh và nhiễm trùng/viêm nhiễm.
Mặc dù đã được chứng minh có nhiều lợi ích, FDG vẫn có những hạn chế trong việc đánh giá một số khối u liên quan, chẳng hạn như ung thư tuyến tiền liệt. Do đó, đã có nhu cầu cấp thiết phát triển và ứng dụng lâm sàng của các dược phẩm phóng xạ PET khác nhau có thể hình ảnh hóa những loại khối u này một cách chính xác hơn. Do đó, một số dược phẩm phóng xạ PET không phải FDG đã được giới thiệu vào thực tiễn lâm sàng để quản lý bệnh ung thư. Xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục mở rộng ra quốc tế. Việc sử dụng PET/CT với các dược phẩm phóng xạ PET khác nhau phù hợp với loại khối u và quá trình sinh học đang được đánh giá là một phần của phương pháp y học chính xác cá nhân hóa.
Mục tiêu của bài công bố này là cung cấp một phương pháp dựa trên trường hợp để hiểu biết về sự phân bố sinh học bình thường, các biến thể và cạm bẫy, bao gồm một số ví dụ về các hình ảnh khác nhau cho các chỉ định ung thư chính của từng dược phẩm phóng xạ PET không phải FDG mới. Điều này sẽ giúp dễ dàng hơn trong việc diễn giải và nhận biết các biến thể và cạm bẫy phổ biến nhằm đảm bảo rằng, trong thực tiễn lâm sàng, báo cáo chính thức là chính xác và hữu ích.
Một số dược phẩm phóng xạ này đã được cung cấp thương mại tại nhiều quốc gia (ví dụ: 68Ga-DOTATATE và DOTATOC), một số khác đang trong quá trình trở thành có sẵn (ví dụ: 68Ga-PSMA), và một số vẫn đang được nghiên cứu. Tuy nhiên, danh sách này có thể thay đổi khi một số dược phẩm phóng xạ ngày càng được sử dụng nhiều hơn, trong khi những loại khác giảm dần trong sử dụng.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) được khuyến nghị bởi hướng dẫn của Hiệp hội Niệu học Châu Âu như là phương pháp tiêu chuẩn để sinh thiết có hướng dẫn hình ảnh. Gần đây, chụp cắt lớp phát positron với kháng nguyên màng cụ thể tuyến tiền liệt (PSMA PET) đã cho thấy kết quả đầy hứa hẹn như một công cụ cho mục đích này. Mục tiêu của nghiên cứu này là so sánh độ chính xác của chụp cắt lớp phát positron với kháng nguyên màng cụ thể tuyến tiền liệt/chụp cắt lớp cộng hưởng từ (PET/MRI) sử dụng kháng nguyên màng cụ thể tuyến tiền liệt gắn gallium (68Ga-PSMA-11) và MRI đa tham số (mpMRI) để xác định vị trí khối u trước khi sinh thiết và sự đồng thuận giữa các người đọc cho phân tích hình ảnh trực quan và bán định lượng. Các thông số bán định lượng bao gồm hệ số khuếch tán rõ ràng (ADC) và đường kính khối u lớn nhất cho mpMRI, cùng với giá trị hấp thụ chuẩn hóa (SUVmax) và thể tích dương tính với PSMA (PSMAvol) cho PSMA PET/MRI.
Độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 61.4% và 92.9% cho mpMRI, và 66.7% và 92.9% cho PSMA PET/MRI ở người đọc thứ nhất. Đánh giá theo nhận định từ các chuyên gia (RPE) có sẵn ở 23 bệnh nhân với 41 trong số 47 vùng có kết quả khác nhau. Dựa trên kết quả RPE, độ đặc hiệu cho cả hai phương pháp hình ảnh đều tăng lên lần lượt là 98% và 99%, và độ nhạy được cải thiện lên 63.9% và 72.1% cho mpMRI và PSMA PET/MRI. Cả hai phương pháp đều cho thấy sự đồng thuận đáng kể giữa các người đọc cho việc xác định vị trí khối u nguyên phát (mpMRI kappa = 0.65 (0.52–0.79), PSMA PET/MRI kappa = 0.73 (0.61–0.84)). ICC cho SUVmax, PSMAvol và đường kính khối u gần như hoàn hảo (≥ 0.90) trong khi đối với ADC chỉ ở mức trung bình (ICC = 0.54 (0.04–0.78)). ADC và đường kính khối u không có tương quan đáng kể với điểm Gleason (
PSMA PET/MRI có độ chính xác và độ tin cậy tương tự như mpMRI về việc xác định vị trí khối u ung thư tuyến tiền liệt nguyên phát (PCa). Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, các thông số bán định lượng từ PSMA PET/MRI có tương quan với độ ác tính của khối u và đáng tin cậy hơn so với các thông số từ mpMRI.
Viêm động mạch lớn (LVV) có thể được phân loại dựa trên độ nghiêm trọng của triệu chứng, và sự phân loại này giúp bác sĩ quyết định cách tiếp cận điều trị. Mục tiêu của chúng tôi là so sánh các phát hiện từ hình ảnh qua phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron/ cộng hưởng từ (PET/MR) và các thông số viêm giữa LVV nặng và không nặng. Một cuộc truy vấn hồi cứu đã được thực hiện để xác định tất cả bệnh nhân mắc LVV đã thực hiện PET/MR tại cơ sở của chúng tôi trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 1 năm 2021.
Mười một bệnh nhân (chín nữ; tuổi trung bình 62.2 ± 16.4 năm) đã thực hiện 15 lần quét PET/MR. Dương tính được xác định bởi các phát hiện chỉ thị LVV hoạt động trên từng phương pháp: PET dương tính nếu hoạt động chuyển hóa của mạch máu lớn hơn hoạt động chuyển hóa của gan; MR dương tính nếu có tình trạng dày thành mạch hoặc tăng cường độ tương phản. Khi các phát hiện PET dương tính hoặc MR dương tính được coi là quét dương tính, những bệnh nhân LVV có bệnh nặng (
Vì những sự khác biệt đã quan sát được, PET/MR dường như phù hợp hơn trong việc hỗ trợ phân loại LVV thành nặng hoặc không nặng so với các phép đo thông số viêm và các phép đo định lượng hoạt động chuyển hóa. Đánh giá định tính về độ dương tính của PET và MR qua 18F-fluorodeoxyglucose PET/MR có thể bổ sung cho quyết định phân loại LVV dựa trên triệu chứng lâm sàng và có thể hữu ích khi triệu chứng lâm sàng trùng với các quá trình bệnh lý khác.
Sự phát hiện các nhiễm trùng tiềm ẩn và viêm nhẹ trong thực hành lâm sàng vẫn là một thách thức lớn và phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn của người đọc. Mặc dù hình ảnh phân tử, như [18F]FDG PET hoặc xạ hình bạch cầu được gán nhãn phóng xạ, cung cấp dữ liệu toàn thân định lượng và có thể tái lập về các phản ứng viêm, nhưng việc giải thích chúng vẫn bị giới hạn bởi phân tích hình ảnh. Điều này thường dẫn đến chẩn đoán và điều trị chậm trễ, cũng như các lĩnh vực tiềm năng chưa được khai thác. Trí tuệ nhân tạo (AI) cung cấp những cách tiếp cận đổi mới để khai thác khối lượng lớn dữ liệu hình ảnh và đã dẫn đến những bước đột phá mang tính cách mạng trong các lĩnh vực y tế khác. Ở đây, chúng tôi thảo luận về cách các công cụ dựa trên AI có thể cải thiện độ nhạy phát hiện của hình ảnh phân tử trong nhiễm trùng và viêm, nhưng cũng là cách mà AI có thể mở rộng phân tích dữ liệu vượt xa các ứng dụng hiện tại nhằm dự đoán kết quả và đánh giá rủi ro dài hạn.
Hình ảnh PET/CT [68Ga]Ga-DOTA-TOC sớm sau liệu pháp phóng xạ thụ thể peptide (PRRT) ở bệnh nhân u nội tiết thần kinh thường được sử dụng như một dự đoán về khả năng sống sót, nhưng thiếu tính hợp lệ. Nghiên cứu này phân tích giá trị dự đoán của những thay đổi trong các thông số PET sau PRRT.
Các phép quét PET/CT [68Ga]Ga-DOTA-TOC tại thời điểm cơ bản và sau điều trị của tất cả bệnh nhân được điều trị bằng PRRT đã được xác định tự động. Biểu hiện thụ thể somatostatin tổng thể (TL-SSTR) và thể tích khối u biểu hiện thụ thể somatostatin (SSTR-TV) được sử dụng làm biến số trong các mô hình Cox tỷ lệ nguy cơ để dự đoán thời gian đến điều trị mới.
Trong số hai mươi bệnh nhân, thời gian trung bình đến điều trị mới là 19,3 tháng (khoảng [3,8; 36,2]). Các thay đổi tuyệt đối và phần trăm trong cả hai thông số PET không liên quan đến thời gian đến điều trị mới. Một mối quan hệ đáng kể giữa các thụ thể somatostatin TV tại thời điểm cơ bản độc lập và thời gian theo dõi TL-SSTR và thời gian đến điều trị mới đã được xác định.
Các tham số PET/CT [68Ga]Ga-DOTA-TOC được lấy tự động rất dễ thu thập và có thể có giá trị dự đoán sau khi hoàn thành PRRT. Việc thu thập các tham số SSTR-TV hoặc TL-SSTR ở thời điểm cơ bản và trong quá trình theo dõi có thể có giá trị trong việc xác định tiên lượng của bệnh nhân.
Các khối u tuyến yên đại không hoạt động lâm sàng (NFMA) đã được báo cáo có bộc lộ thụ thể somatostatin (SSTR), nhưng các kết quả là không nhất quán giữa các nghiên cứu khác nhau. Điều này có thể liên quan đến độ nhạy cảm và độ đặc hiệu hạn chế của các kỹ thuật được sử dụng cho đến nay, tức là miễn dịch hóa mô học trong các mẫu phẫu thuật và ghi hình 111In-DTPA-octreotide in vivo. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá sự bộc lộ SSTR trong NFMA in vivo bằng cách sử dụng 68Ga-DOTATATE PET, cung cấp độ nhạy và độ phân giải không gian vượt trội so với ghi hình phẳng hoặc SPECT.
Ba mươi bảy bệnh nhân được chẩn đoán là NFMA đã trải qua 68Ga-DOTATATE PET/CT của đầu trong khuôn khổ một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát nhằm đánh giá tác động của tương tự somatostatin lanreotide lên kích thước NFMA. Các hình ảnh MRI tuyến yên T1 có sự đồng thu vào riêng lẻ đã được sử dụng để đánh giá sự hấp thu 68Ga-DOTATATE (SUVmean) trong khối u. Một SUVmean lớn hơn 2 được coi là dương tính.
Sự hấp thu 68Ga-DOTATATE dương tính ở 34/37 bệnh nhân (92%), với SUVmean của các khối u dương tính dao động từ 2.1 đến 12.4 (trung bình ± SD 5.8 ± 2.6).
Đây là báo cáo đầu tiên về 68Ga-DOTATATE PET thực hiện trên bệnh nhân NFMA, cho thấy sự bộc lộ SSTR in vivo ở phần lớn các trường hợp. Tỷ lệ dương tính cao khi so với các kết quả thu được từ ghi hình 111In-DTPA-octreotide có thể phản ánh độ nhạy cao hơn của hình ảnh PET.
Đăng ký thử nghiệm Hà Lan,
Khái niệm y học cá nhân hóa đã nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sự khác biệt giữa và trong các khối u cho việc điều trị ung thư. Mục tiêu của nghiên cứu này là khám phá việc sử dụng PET/MRI đa tham số đồng thời trước khi hóa trị xạ trị cho ung thư cổ tử cung nhằm phân loại và đánh giá tính không đồng nhất của các khối u.
Mười bệnh nhân có ung thư cổ tử cung nguyên phát đã được xác nhận bằng mô học được thăm khám bằng PET/MRI đa tham số 68Ga-NODAGA-E[c(RGDyK)]2 để lập kế hoạch điều trị bức xạ sau khi thực hiện 18F-FDG-PET/CT chẩn đoán. Các giá trị hấp thu chuẩn hóa (SUV) của RGD và FDG, MRI khuếch tán và hệ số khuếch tán biểu kiến (ADC) thu được và các bản đồ dược động học được lấy từ MRI tăng cường tương phản động với mô hình Tofts (iAUC60,
Hình ảnh MRI và PET chức năng của các khối u cổ tử cung có vẻ khác biệt cả giữa các bệnh nhân và không gian trong các khối u, và các mối quan hệ giữa các tham số thay đổi mạnh mẽ trong nhóm bệnh nhân. Mối tương quan không gian mạnh nhất được quan sát giữa việc hấp thu FDG và ADC (trung vị