Các Phương Pháp PCR-cRFLP Đơn Giản, Không Phóng Xạ và Đa Thể Để Phân Tích Genotype Các Allele Đánh Dấu SP-A và SP-D Của Con Người Dịch bởi AI Tập 15 Số 4 - Trang 269-281 - 1999
Susan DiAngelo, Zhenwu Lin, Guirong Wang, Scott T. Phillips, Mika Rämet, Jin Luo, Joanna Floros
Chúng tôi trước đây đã xác định một allele của gen SP‐A2 ở người có tần suất xuất hiện cao hơn trong một quần thể RDS [12]. Do tầm quan trọng của SP‐A trong chức năng phổi bình thường và vai trò mới nổi của nó trong phòng vệ tự nhiên của cơ thể cùng với việc điều chỉnh các quá trình viêm, chúng tôi muốn mô tả rõ hơn các kiểu gen của cả gen SP‐A1 và SP‐A2. Đã xác định rằng SP‐D cũng có các vai trò tương tự trong phản ứng miễn dịch. Vì vậy, trong báo cáo này chúng tôi 1) mô tả một phương pháp PCR cRFLP không phóng xạ mới để phân tích kiểu gen cả SP‐A và SP‐D; 2) mô tả hai đa hình biallelic chưa được công bố trước đó trong gen SP‐D; 3) trình bày chuỗi một phần của một allele mới SP‐A1 (6A14) và mô tả các allele mới khác của SP‐A1 và SP‐A2; và 4) mô tả thêm các phương pháp đánh giá kiểu gen SP‐A. Khả năng xác định chính xác hơn và hiệu quả hơn các mẫu từ những cá nhân mắc các bệnh phổi khác nhau sẽ hỗ trợ cho các nghiên cứu liên kết dựa trên quần thể và gia đình. Các đa hình gen có thể được xác định và giải thích một phần về tính nhạy cảm bệnh tật của cá nhân và/hoặc hiệu quả điều trị.
Comparative Study of Circulating MMP-7, CCL18, KL-6, SP-A, and SP-D as Disease Markers of Idiopathic Pulmonary Fibrosis Tập 2016 - Trang 1-8 - 2016
Kosuke Hamai, Hiroshi Iwamoto, Nobuhisa Ishikawa, Yasushi Horimasu, Takeshi Masuda, Shintaro Miyamoto, Taku Nakashima, Shinichiro Ohshimo, Kazunori Fujitaka, Hironobu Hamada, Noboru Hattori, Nobuoki Kohno
Background.Recent reports indicate that matrix metalloproteinase-7 (MMP-7) and CC-chemokine ligand 18 (CCL18) are potential disease markers of idiopathic pulmonary fibrosis (IPF). The objective of this study was to perform direct comparisons of these two biomarkers with three well-investigated serum markers of IPF, Krebs von den Lungen-6 (KL-6), surfactant protein-A (SP-A), and SP-D.Methods.The serum levels of MMP-7, CCL18, KL-6, SP-A, and SP-D were evaluated in 65 patients with IPF, 31 patients with bacterial pneumonia, and 101 healthy controls. The prognostic performance of these five biomarkers was evaluated in patients with IPF.Results.The serum levels of MMP-7, KL-6, and SP-D in patients with IPF were significantly elevated compared to those in patients with bacterial pneumonia and in the healthy controls. Multivariate survival analysis showed that serum MMP-7 and KL-6 levels were independent predictors in IPF patients. Moreover, elevated levels of both KL-6 and MMP-7 were associated with poorer survival rates in IPF patients, and the combination of both markers provided the best risk discrimination using the C statistic.Conclusions.The present results indicated that MMP-7 and KL-6 were promising prognostic markers of IPF, and the combination of the two markers might improve survival prediction in patients with IPF.
Biểu hiện của MicroRNA trong cặn nước tiểu của bệnh nhân viêm thận IgA Dịch bởi AI Tập 28 Số 2 - Trang 79-86 - 2010
Gang Wang, Bonnie Ching‐Ha Kwan, Fernand Mac–Moune Lai, Kai Ming Chow, Philip Kam‐Tao Li, Cheuk‐Chun Szeto
Đặt vấn đề: Micro-RNA (miRNA) điều hòa một phần ba tất cả các gen mã hóa protein và có vai trò cơ bản trong bệnh sinh của nhiều loại bệnh. Chúng tôi đã nghiên cứu sự biểu hiện của một số loài miRNA (họ miR-200, miR-205 và miR-192) trong cặn nước tiểu của bệnh nhân viêm thận IgA (IgAN).
Phương pháp: Chúng tôi đã nghiên cứu 43 bệnh nhân có kết quả sinh thiết xác nhận IgAN. Sự biểu hiện của miRNA trong nước tiểu được xác định và so sánh với 13 đối chứng khỏe mạnh.
Kết quả: Các mức độ miR-200a, miR-200b và miR-429 trong nước tiểu giảm ở bệnh nhân IgAN, nhưng không có sự thay đổi ở miR-200c, miR-141, miR-205 hoặc miR-192. Protein niệu có sự tương quan đáng kể với biểu hiện nước tiểu của miR-200a (r= −0.483,P< 0.001), miR-200b (r= −0.448,P= 0.001) và miR-429 (r= −0.466,P= 0.001). Chức năng thận cơ bản có sự tương quan đáng kể với biểu hiện nước tiểu của miR-200b (r= 0.512,P< 0.001) và miR-429 (r= 0.425, P = 0.005). Biểu hiện gen nước tiểu của ZEB2 có sự tương quan nghịch với miR-200b (r= −0.321,P= 0.017); và biểu hiện vimentin có sự tương quan nghịch với biểu hiện miR-200a (r= −0.360,P= 0.007), miR-200b (r= −0.416,P= 0.002) và miR-429 (r= −0.375,P= 0.005). Sau 33.4 ± 12.6 tháng, tỷ lệ suy giảm chức năng thận có sự tương quan đáng kể với biểu hiện nước tiểu của miR-200b (r= 0.316,P= 0.034).
Kết luận: Biểu hiện nước tiểu của miR-200a, miR-200b và miR-429 giảm ở bệnh nhân IgAN, và mức độ giảm tương quan với độ nặng của bệnh và tỷ lệ tiến triển. Các kết quả cho thấy các loài miRNA này có thể đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của IgAN. Cần có thêm nghiên cứu để làm rõ vai trò của sự ức chế miRNA trong nước tiểu như một dấu ấn không xâm lấn của IgAN.
Over‐Expression of Dopamine D2 Receptor and Inwardly Rectifying Potassium Channel Genes in Drug‐Naive Schizophrenic Peripheral Blood Lymphocytes as Potential Diagnostic Markers Tập 21 Số 2 - Trang 61-69 - 2005
Ágnes Zvara, György Szekeres, Zoltán Janka, J Kelemen, Csongor Cimmer, Miklós Sántha, László G. Puskás
Schizophrenia is one of the most common neuropsychiatric disorders affecting nearly 1% of the human population. Current diagnosis of schizophrenia is based on complex clinical symptoms. The use of easily detectable peripheral molecular markers could substantially help the diagnosis of psychiatric disorders. Recent studies showed that peripheral blood lymphocytes (PBL) express subtypes of D1 and D2 subclasses of dopamine receptors. Recently, dopamine receptor D3 (DRD3) was found to be over‐expressed in schizophrenic PBL and proposed to be a diagnostic and follow‐up marker for schizophrenia. In this study we screened PBL of 13 drug‐naive/drug‐free schizophrenic patients to identify additional markers of schizophrenia. One of the benefits of our study is the use of blood samples of non‐medicated, drug‐naive patients. This excludes the possibility that changes detected in gene expression levels might be attributed to the medication rather than to the disorder itself. Among others, genes for dopamine receptor D2 (DRD2) and the inwardly rectifying potassium channel (Kir2.3) were found to be over‐expressed in microarray analysis. Increased mRNA levels were confirmed by quantitative real‐time PCR (QRT‐PCR) using the SybrGreen method and dual labeled TaqMan probes. The use of both molecular markers allows a more rapid and precise prediction of schizophrenia and might help find the optimal medication for schizophrenic patients.
MicroRNAs-Role in Lung Cancer Tập 2014 - Trang 1-13 - 2014
Małgorzata Guz, Adolfo Rivero‐Müller, Estera Okoń, Agnieszka Stenzel-Bembenek, Krzysztof Polberg, Maria Słomka, Andrzej Stepulak
Regulation of gene expression is essential for normal physiological functions; thus deregulation of gene expression is common in disease conditions. One level of regulation of gene expression is performed by noncoding RNAs, among which microRNAs (miRNA) are the best studied. Abnormal expression of these molecular players can lead to pathogenic processes such as heart disease, immune system abnormalities, and carcinogenesis, to name but a few. Of a length of 18–25 nucleotides miRNAs are involved in binding partial complementary sequences within the 3′-UTR (3′-untranslated region) of the target mRNAs. Depending on the type of neoplastic transformation, miRNAs can act both as oncogenes (oncomirs) or as tumor suppressors. Because of the great importance of miRNAs, most researches focus on either their role as biomarkers or their potential as therapeutic targets. Herein, we present the review of microRNA biology, function, and tumorigenic potential with emphasis on their role in lung cancer.
Phân Tích Mạng Phân Tử Của Transcriptome T‐Cell Đề Xuất Quy Định Bất Thường Của Biểu Hiện Gen Bởi NF‐κB Như Một Sinh Dấu Cho Sự Tái Phát Của Bệnh Xơ Cứng Vì Nhiều Nguyên Nhân Dịch bởi AI Tập 25 Số 1 - Trang 27-35 - 2008
Jun‐ichi Satoh, Tamako Misawa, Hiroko Tabunoki, Takashi Yamamura
Các cơ chế phân tử chịu trách nhiệm cho sự tái phát cấp tính của bệnh xơ cứng vì nhiều nguyên nhân (MS) vẫn chưa rõ ràng. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các gen sinh dấu đặc hiệu cho sự tái phát trong tế bào T bạch cầu của bệnh xơ cứng tái phát - thuyên giảm (RRMS). RNA tổng hợp từ các tế bào T CD3+ được tách ra từ sáu bệnh nhân RRMS lấy tại đỉnh điểm tái phát cấp tính và tại thời điểm phục hồi hoàn toàn đã được xử lý cho phân tích vi mạch DNA. Chúng tôi đã xác định được một tập hợp 43 gen biểu hiện khác biệt (DEG) giữa tái phát cấp tính và phục hồi hoàn toàn. Sử dụng 43 DEG như một bộ phân biệt, phân cụm phân cấp đã tách cụm của tái phát ra khỏi cụm của phục hồi. Mạng lưới phân tử của 43 DEG được nghiên cứu bằng KeyMolnet, một công cụ tin sinh học cho việc phân tích tương tác phân tử trên cơ sở dữ liệu kiến thức được chọn lọc, cho thấy mối quan hệ đáng kể nhất với sự điều tiết bất thường của biểu hiện gen bởi yếu tố hạt nhân‐kappa B (NF‐κB) trong tế bào T trong quá trình tái phát MS. Những kết quả này ủng hộ giả thuyết logic rằng NF‐κB đóng một vai trò trung tâm trong việc kích hoạt các sự kiện phân tử trong tế bào T chịu trách nhiệm cho sự kích thích tái phát cấp tính của MS, và gợi ý rằng sự điều chỉnh gen bất thường bởi NF‐κB trên transcriptome tế bào T có thể đóng vai trò như một sinh dấu phân tử để theo dõi hoạt động lâm sàng của bệnh MS.
Các dấu ấn sinh học huyết thanh mới để phân biệt Cholangiocarcinoma với các bệnh về đường mật lành tính bằng phương pháp protein học Dịch bởi AI Tập 2015 - Trang 1-11 - 2015
Tavan Janvilisri, Kawin Leelawat, Sittiruk Roytrakul, Atchara Paemanee, Rutaiwan Tohtong
Đặt vấn đề và Mục tiêu. Cholangiocarcinoma (CCA) là loại ung thư đường mật phổ biến nhất, có tỷ lệ tử vong cao do thiếu khả năng phát hiện sớm. Do đó, phần lớn các trường hợp CCA được phát hiện ở giai đoạn tiến triển hoặc muộn với di căn tại chỗ hoặc xa vào thời điểm chẩn đoán. Các dấu ấn u hiện có, bao gồm CA19-9 và CEA, không hiệu quả và có giới hạn sử dụng do độ nhạy và độ đặc hiệu thấp. Tại đây, chúng tôi cố gắng xác định các dấu ấn sinh học huyết thanh cho CCA có thể phân biệt hiệu quả CCA với các bệnh về đường mật lành tính (BBTDs).Phương pháp. Các mẫu huyết thanh từ 19 bệnh nhân CCA và 17 BBTD đã được tách bằng SDS-PAGE và theo sau bằng LC-MS/MS, và được phân tích thống kê và xác thực chéo để xác định các protein có độ phong phú tăng hoặc giảm đáng kể trong mẫu CCA so với BBTDs.Kết quả. Ngoài việc xác định một số protein đã được biết đến là biểu hiện khác nhau ở CCA và BBTDs, chúng tôi cũng phát hiện một số phân tử trước đây chưa liên quan đến CCA. Những phân tử này bao gồm FAM19A5, MAGED4B, KIAA0321, RBAK, và UPF3B.Kết luận. Các dấu ấn sinh học huyết thanh mới để phân biệt CCA với BBTDs đã được xác định bằng cách tiếp cận protein học. Việc xác thực thêm các protein này có tiềm năng cung cấp một dấu ấn sinh học để phân biệt CCA với BBTDs.
Mối liên hệ giữa gen thụ thể Interleukin 23 với bệnh sarcoidosis Dịch bởi AI Tập 31 Số 1 - Trang 17-24 - 2011
Hyun Soo Kim, Dongseok Choi, Lyndell L. Lim, Gopal Allada, Justine R. Smith, C. R. Austin, T.M. Doyle, Kelley Goodwin, James T. Rosenbaum, Tammy M. Martin
Gen thụ thể interleukin 23 (IL23R) đã được báo cáo là một yếu tố di truyền liên quan chặt chẽ đến bệnh viêm ruột, bệnh vẩy nến và viêm khớp dính khớp. Chúng tôi đã nghiên cứu mối liên hệ giữa các biến thể đơn nucleotide (SNPs) của gen IL23R và nguy cơ mắc bệnh sarcoidosis, bao gồm triệu chứng lâm sàng của viêm màng bồ đào.
Chín mươi một bệnh nhân sarcoidosis (58 người có triệu chứng viêm màng bồ đào và 33 người không) và 104 đối tượng đối chứng khỏe mạnh đã được xác định kiểu gen cho mười một SNP của IL23R. DNA đã được khuếch đại bằng primer PCR đặc hiệu và được xác định kiểu gen bằng HPLC biến tính và/hoặc giải trình tự DNA trực tiếp. Các so sánh tần suất theo nhóm bệnh nhân và đối chứng đã được phân tích bằng cách sử dụng kiểm định Chi bình phương.
Ba SNP của IL23R, rs7517847 (intron 6), rs11465804 (intron 8) và rs11209026 (exon 9, c.1142G>A, p.Arg381Gln) đã cho thấy mối liên hệ với bệnh sarcoidosis trong quần thể của chúng tôi (p< 0.05): rs7517847 cho thấy tần suất tăng trong nhóm sarcoidosis so với nhóm đối chứng, nhưng rs11465804 và rs11209026 thì có tần suất giảm. Hai trong số các SNP này có liên hệ với phân nhóm viêm màng bồ đào so với nhóm đối chứng: rs11465804 (0.9% so với 7.2%, OR = 0.11, P = 0.013) và rs11209026 (1.8% so với 7.3%, OR = 0.23, P = 0.038).
Phát hiện này cho thấy mối liên hệ của đa hình IL23R với bệnh sarcoidosis, đặc biệt là với viêm màng bồ đào do sarcoidosis.IL23R có thể là một gen nhạy cảm chung mà nhiều rối loạn tự miễn dịch như bệnh viêm ruột, bệnh vẩy nến và viêm khớp dính khớp cũng như viêm màng bồ đào do sarcoidosis sẽ chia sẻ.
Mô hình biểu hiện và liên quan lâm sàng - bệnh học của protein Indoleamine 2,3-dioxygenase 1/Tryptophan 2,3-Dioxygenase trong ung thư đại trực tràng Dịch bởi AI Tập 2016 - Trang 1-9 - 2016
I-Chien Chen, Kuen‐Haur Lee, Ying-Hua Hsu, Weiran Wang, Chuan‐Mu Chen, Ya‐Wen Cheng
Mục tiêu. Tế bào ung thư sử dụng con đường indoleamine 2,3-dioxygenase 1 (IDO1) để подавить phản ứng miễn dịch của vật chủ nhằm tạo điều kiện sống sót, phát triển, xâm lấn và di căn của tế bào ác tính. Biểu hiện IDO1 cao đã được chứng minh là có liên quan đến tiến triển của ung thư đại trực tràng (CRC) và tương quan với kết quả lâm sàng kém. Tuy nhiên, mối tương quan tiềm năng giữa biểu hiện IDO1 trong một quần thể CRC với tỷ lệ đột biến thấp của geneAPC vẫn chưa được biết đến.Phương pháp và vật liệu. Mẫu mô và mẫu máu được thu thập từ 192 bệnh nhân CRC. Biểu hiện của protein IDO1, tryptophan 2,3-dioxygenase (TDO2) và beta-catenin được phân tích bằng kỹ thuật miễn dịch nhuộm vi thể. Sự không ổn định bộ gen vi mô (MSI) được xác định bằng cách khuếch đại PCR của các vị trí microsatellite.Kết quả. Kết quả cho thấy biểu hiện protein IDO1 hoặc TDO2 cao có liên quan đến các đặc điểm của các kiểu hình CRC hung hãn hơn. Lần đầu tiên, chúng cũng tiết lộ một mối tương quan dương giữa biểu hiện bất thường của beta-catenin và IDO1 hoặc TDO2 trong một quần thể CRC với tỷ lệ đột biến thấp củaAPC.Kết luận. Chúng tôi kết luận rằng một con đường phân tử được điều chỉnh bởi IDO1 đã dẫn đến biểu hiện bất thường của beta-catenin trong nhân/cytoplasm của các bệnh nhân CRC với tỷ lệ đột biến thấp củaAPC, làm cho IDO1 trở thành một mục tiêu thú vị cho liệu pháp miễn dịch trong CRC.
Bệnh lý mắt liên quan đến tuyến giáp và các chỉ dấu sinh học: Chúng ta đang ở đâu và có thể hy vọng gì cho tương lai Dịch bởi AI Tập 2018 - Trang 1-9 - 2018
Natacha Turck, Simone Eperon, Maria De Los Angeles Gracia, A. Obéric, M Hamédani
Đặt bối cảnh. Bệnh lý mắt liên quan đến tuyến giáp (TAO) là bệnh tự miễn phổ biến nhất ở vùng hốc mắt. Bệnh thường xảy ra nhiều hơn ở những bệnh nhân gặp phải tình trạng cường giáp, đặc trưng bởi bệnh Graves, nhưng cũng có thể liên quan đến suy giáp hoặc trạng thái tuyến giáp bình thường. Chẩn đoán TAO dựa trên các đặc điểm lâm sàng của hốc mắt, tiêu chí hình ảnh và mối liên hệ tiềm tàng với bệnh tuyến giáp. Đến nay, chưa có một chỉ thị cụ thể nào cho bệnh lý ở hốc mắt, khiến việc chẩn đoán sớm trở nên khó khăn, đặc biệt nếu tổn thương ở hốc mắt xảy ra trước khi có rối loạn chức năng tuyến giáp.Tóm tắt. Mục tiêu của bài đánh giá này là trình bày về căn bệnh và tổng hợp dữ liệu hiện có trong tài liệu liên quan đến việc điều tra các chỉ dấu sinh học của TAO.Kết luận. Dù đã có những tiến bộ trong việc hiểu biết về bệnh TAO, vẫn còn thiếu một số thông tin quan trọng. Thông thường, trong tương lai, cần phải có những nỗ lực lớn trong việc phát hiện ra các chỉ dấu sinh học mới, xác nhận các ứng cử viên khả nghi trên các tập hợp đa trung tâm với các phương pháp đều đặn, và thiết lập các hiệu suất lâm sàng của chúng trong các lĩnh vực ứng dụng lâm sàng cụ thể nhằm không chỉ cải thiện quản lý cho bệnh nhân TAO mà còn các lựa chọn điều trị và theo dõi.