thumbnail

Cell Biology International

SCOPUS (1993-2023)SCIE-ISI

  1065-6995

 

 

Cơ quản chủ quản:  Wiley-Blackwell , WILEY

Lĩnh vực:
Cell BiologyMedicine (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Tác động của việc sửa đổi bề mặt, kích thước và hình dạng đến sự hấp thu tế bào của nanoparticle Dịch bởi AI
Tập 39 Số 8 - Trang 881-890 - 2015
Sara Salatin, Solmaz Maleki Dizaj, Ahmad Yari Khosroushahi
Tóm tắt

Ngày nay, việc áp dụng thành công các nanoparticle cho các đối tượng điều trị cần sự hấp thu hiệu quả của chúng bởi các tế bào. Do đó, việc nghiên cứu tương tác của nanoparticle với màng tế bào để đạt được sự hấp thu tế bào hiệu quả là rất thiết yếu và quan trọng. Việc vận chuyển lipid, protein, glucose và các vật liệu sinh học khác vào tế bào có thể xảy ra thông qua hai con đường chính là ngoại bào và nội bào. Khả năng thâm nhập của nanoparticle vào tế bào cần được xem xét trong quá trình thiết kế các hạt này. Nhiều thí nghiệm in vivo và in vitro trong lĩnh vực công nghệ nano đã xác nhận ảnh hưởng của các thuộc tính sinh lý hóa học trong trạng thái tương tác giữa tế bào và nanoparticle. Do đó, việc tối ưu hóa các tham số liên quan trực tiếp đến các đặc tính sinh lý hóa thông qua quá trình chuẩn bị dường như là cần thiết để cải thiện hiệu quả điều trị của các nano-vận chuyển. Ngoài ra, môi trường sinh học và sự phân chia tế bào cũng ảnh hưởng đến lượng nanoparticle được hấp thu vào tế bào. Nghiên cứu này tổng hợp ảnh hưởng của kích thước, hình dạng, sự sửa đổi bề mặt của nanoparticle, môi trường và tác động của sự phân chia tế bào đến sự hấp thu tế bào của các nano-vận chuyển thuốc/gene.

Tác động chống oxy hóa và tạo oxy hóa của quercetin trên các tế bào A549 Dịch bởi AI
Tập 31 Số 10 - Trang 1245-1250 - 2007
Agnieszka Robaszkiewicz, Aneta Balcerczyk, Grzegorz Bartosz
Tóm tắt

Quercetin, một polyphenol thực vật phổ biến, đã được báo cáo có cả đặc tính chống oxy hóa và tạo oxy hóa. Chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của quercetin đối với các tế bào A549 trong điều kiện nuôi cấy in vitro. Chúng tôi phát hiện rằng nồng độ thấp của flavonoid này kích thích sự tăng sinh tế bào và làm tăng khả năng chống oxy hóa tổng thể (TAC) của các tế bào; trong khi nồng độ cao hơn thì làm giảm sự sống sót và khả năng sống sót của tế bào, hàm lượng thiol, TAC và hoạt động của superoxide dismutase, catalase và glutathione S‐transferase. Quercetin giảm sản xuất các loại oxy phản ứng trong các tế bào nhưng lại tạo ra peroxit trong môi trường nuôi cấy. Các tác động của quercetin đối với tế bào do đó là phức tạp và bao gồm cả các hiệu ứng chống oxy hóa cũng như sự kích thích căng thẳng oxy hóa do sự hình thành các loại oxy phản ứng trong môi trường ngoại bào.

Hsa_circ_0020397 điều hòa khả năng sống sót, apoptosis và xâm lấn của tế bào ung thư đại trực tràng bằng cách thúc đẩy biểu hiện của các gen mục tiêu miR-138 là TERT và PD-L1 Dịch bởi AI
Tập 41 Số 9 - Trang 1056-1064 - 2017
Xiu‐li Zhang, Ling‐ling Xu, Sheng Wang
Resumo

Ung thư đại trực tràng (CRC) là một loại ung thư đường tiêu hóa phổ biến ở người, và các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng RNA vòng (circRNA) có thể điều hòa sự phát triển của ung thư. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá vai trò của circRNA đặc biệt trong ung thư đại trực tràng. Các thử nghiệm PCR định lượng của chúng tôi cho thấy sự gia tăng biểu hiện của circRNA has_circ_0020397 và sự giảm biểu hiện của miR-138 trong các tế bào CRC, cũng như một mối tương quan âm giữa hai RNA này. Sử dụng một thử nghiệm báo cáo luciferase kép, chúng tôi cho thấy có bằng chứng về các vị trí liên kết miR-138 trên hsa_circ_0020397, và rằng sự biểu hiện quá mức của hsa_circ_0020397 có thể ngăn chặn sự giảm hoạt tính luciferase bởi miR-138. Mặc dù hsa_circ_0020397 không ảnh hưởng đến biểu hiện của miR-138, nhưng has_circ_0020397 đã ức chế hoạt động của miR-138, như được kiểm tra qua biểu hiện của các mục tiêu miR-138 telomerase reverse transcriptase (TERT) và programmed death-ligand 1 (PD-L1). Các liệu pháp đối chứng với các plasmid biểu hiện quá mức hình dạng thẳng của hsa_circ_0020397 không có những hiệu ứng này. Hsa_circ_0020397 đã thúc đẩy khả năng sống sót và xâm lấn của các tế bào CRC và ức chế apoptosis của chúng, trong khi miR-138 có tác dụng ngược lại. Tuy nhiên, hsa_circ_0020397 đã phản kháng lại sự ức chế sự tăng trưởng tế bào của miR-138. Khi biểu hiện của TERT hoặc PD-L1 bị ức chế bằng siRNA, các chức năng trên của hsa_circ_0020397 đã bị giảm bớt, cho thấy rằng hsa_circ_0020397 có thể điều hòa khả năng sống sót, apoptosis và sự xâm lấn của tế bào CRC bằng cách thúc đẩy biểu hiện của các gen mục tiêu miR-138. Những phát hiện này hỗ trợ vai trò của circRNA trong sinh bệnh học của ung thư đại trực tràng.

Sản xuất tế bào gốc trung mô từ mô mỡ chó và ứng dụng của chúng trong chó bị viêm khớp mãn tính ở khớp vai - khuỷu tay Dịch bởi AI
Tập 36 Số 2 - Trang 189-194 - 2012
Annalisa Guercio, Patrizia Di Marco, Stefania Casella, Vincenza Cannella, Laura Russotto, Giuseppa Purpari, Santina Di Bella, Giuseppe Piccione
Tóm tắt

Liệu pháp tế bào gốc tự thân AD-MSC [tế bào gốc trung mô (mesenchymal stem cell) từ mỡ] liên quan đến việc thu hoạch mỡ từ bệnh nhân bằng cách tách biệt các tế bào gốc và tế bào tái sinh, sau đó đưa các tế bào này trở lại cho bệnh nhân. Nghiên cứu này đánh giá sự sản xuất tế bào gốc AD-MSC ở chó và khả năng ứng dụng của chúng trong liệu pháp tế bào cho chó. Để đánh giá liệu liệu pháp tế bào có thể thay thế liệu pháp bằng thuốc hay không, hiệu quả lâm sàng của một mũi tiêm AD-MSC vào khớp đơn lẻ đã được đánh giá trên 4 con chó bị đi lại khó khăn liên quan đến viêm khớp (OA) ở các khớp khuỷu tay. Các tế bào MSC đã được tách biệt dễ dàng từ mô mỡ của chó trưởng thành và khả năng hình thành bào tác và phân hóa thành nhiều kiểu hình khác nhau đã được xác nhận. AD-MSC thể hiện OCT4, NANOGSOX2 ở mức độ mRNA, là những dấu ấn đa năng thường được mô tả cho tế bào gốc phôi. Các kết quả cho thấy tính chất tế bào gốc của các tế bào tách biệt từ mỡ chó, và chất lượng tốt đã khiến cho chúng có sẵn cho cả mục đích thí nghiệm và lâm sàng. Các nghiên cứu theo dõi để đánh giá tác động của liệu pháp AD-MSC cho thấy tình trạng OA của khớp khuỷu tay cải thiện theo thời gian, cho thấy tiềm năng đáng kể cho việc sử dụng lâm sàng trong điều trị đi lại khó khăn, đặc biệt khi được áp dụng trước khi chấn thương trở nên nghiêm trọng.

#AD-MSC #tế bào gốc trung mô #mô mỡ #viêm khớp mãn tính #chó
Tải trọng cơ học điều chỉnh tần suất và chiều dài của cilia chính trong tế bào sụn Dịch bởi AI
Tập 34 Số 5 - Trang 441-446 - 2010
Sue R. McGlashan, Martin M. Knight, Tina T. Chowdhury, Purva Joshi, Cynthia G. Jensen, Sarah Kennedy, Charles Poole

Các con đường mà tế bào sụn khớp cảm nhận môi trường cơ học của chúng vẫn chưa rõ ràng. Bằng chứng cấu trúc thuyết phục cho thấy cilia chính của tế bào sụn là các bào quan cảm nhận cơ học. Nghiên cứu này đã sử dụng mô hình nuôi cấy agarose 3D để kiểm tra tác động của biến dạng nén đối với cilia của tế bào sụn. Các cấu trúc tế bào sụn/agarose đã được chịu nén tuần hoàn (0–15%; 1 Hz) trong khoảng thời gian 0,5–48 giờ. Những cấu trúc bổ sung đã được nén trong 48 giờ và cho phép phục hồi trong 72 giờ trong điều kiện không nén và tự do phồng lên. Tần suất và chiều dài của cilia được gắn nhãn bằng anti-acetylated α-tubulin đã được kiểm tra bằng kính hiển vi lập thể. Trong các tế bào sụn phồng tự do, các thông số này tăng theo quy tiến, nhưng đã cho thấy sự giảm đáng kể sau 24 hoặc 48 giờ nén. Một thời gian phục hồi 72 giờ đã phần nào đảo ngược hiệu ứng này. Tần suất và chiều dài cilia giảm không phải do sự gia tăng phân chia tế bào. Do đó, chúng tôi đề xuất rằng việc kiểm soát chiều dài của cilia chính là một cơ chế tín hiệu thích ứng đáp ứng với các mức độ và thời gian tải trọng cơ học thay đổi trong quá trình hoạt động khớp.

Myogenic differentiation of mesenchymal stem cells co-cultured with primary myoblasts
Tập 35 Số 4 - Trang 397-406 - 2011
Justus P. Beier, Franz F. Bitto, Claudia Lange, Dorothee Klumpp, Andreas Arkudas, Oliver Bleiziffer, Anja M. Boos, Raymund E. Horch, Ulrich Kneser
Exosome từ tế bào gốc trung mô tủy xương giảm tích tụ Aβ và cải thiện hồi phục chức năng nhận thức ở chuột mắc bệnh Alzheimer thông qua việc kích hoạt con đường tín hiệu sphingosine kinase/sphingosine‐1‐phosphate Dịch bởi AI
Tập 45 Số 4 - Trang 775-784 - 2021
Xinhui Wang, Guojie Yang
Tóm tắt

Exosome liên quan đến sự phát triển và tiến triển của bệnh Alzheimer (AD), mặc dù tác động của các vesicle ngoài tế bào này trong điều kiện bệnh lý của não vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Do đó, nghiên cứu này nhằm điều tra vai trò và cơ chế của tín hiệu exosome trong AD. Chuột APP/PS1 biến đổi gen đôi được tiêm exosome từ tế bào gốc trung mô tủy xương (BM‐MSCs) hoặc phối hợp với SKI‐Ⅱ (thuốc ức chế sphingosine kinase [SphK]) hoặc VPC23019 (thuốc chặn thụ thể sphingosine‐1‐phosphate [S1P] 1). Chúng tôi quan sát khả năng học tập không gian và trí nhớ của chuột, và đánh giá nồng độ amyloid và các protein. Chúng tôi thấy rằng exosome cải thiện khả năng học tập không gian và trí nhớ của chuột APP/PS1, và tăng cường biểu hiện của SphK1 và S1P1. Hơn nữa, exosome ức chế nồng độ amyloid và tăng cường biểu hiện của NeuN trong vỏ não và hippocampus của chuột APP/PS1. Exosome ức chế nồng độ Aβ1‐40, Aβ1‐42, BACE1, và PS1, và thúc đẩy biểu hiện của neprilysin ở chuột APP/PS1. Tác động mà exosome mang lại bị loại bỏ bởi SKI‐Ⅱ hoặc VPC23019. Kết luận, bài báo của chúng tôi xác nhận rằng exosome từ BM‐MSCs giảm tích tụ Aβ và thúc đẩy hồi phục chức năng nhận thức ở chuột AD bằng cách kích hoạt con đường tín hiệu SphK/S1P. Do đó, dữ liệu của chúng tôi gợi ý rằng exosome chứa S1P/SphK nên được khảo sát như là liệu pháp tiềm năng cho bệnh AD.

#exosome #tế bào gốc trung mô #bệnh Alzheimer #sphingosine kinase #hồi phục chức năng nhận thức
Các tế bào telocyte trong thực quản và hình thái học lai Dịch bởi AI
Tập 36 Số 12 - Trang 1079-1088 - 2012
Mugurel Constantin Rusu, Mihnea Ioan Nicolescu, Adelina Maria Jianu, Rodica Lighezan, Vasile Sorin Mănoiu, D Păduraru
Tóm tắt

Các TCs (telocytes) thực sự được định nghĩa là các tế bào mô đệm với các phần kéo dài cụ thể, được gọi là Tp (telopodes). Chúng đã được xác định tích cực trong nhiều mô và hiện tại chúng tôi báo cáo sự hiện diện của chúng trong thực quản. Những tế bào này được xác định bằng kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) trong mẫu thực quản của chuột Wistar (n = 5) xuất hiện dưới lớp biểu mô cơ sở, trong lớp dưới màng nhầy, liên quan chặt chẽ đến các sợi cơ trơn và cơ vân, cũng như trong lớp ngoài. Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với các tế bào mast, đại thực bào và mạch máu nhỏ. Các hình thái học lai của các quá trình tế bào mô đệm đã được tìm thấy: các quá trình bào tương tiếp tục xa hơn theo cách telopodial. Một mình các telopodes có thể không đủ, tuy nhiên, để chẩn đoán an toàn các TCs trong TEM. Một bộ tiêu chuẩn cụ thể lớn hơn (như sự xuất hiện telopodial và kích thước của cơ thể tế bào và các telopodes) nên được xem xét để phân biệt TCs với các loài fibroblast khác nhau. Các đặc điểm hình thái và siêu cấu trúc nên phân biệt giữa TCs và các tế bào kẽ Cajal trong đường tiêu hóa.

SỰ CHẾT CỦA TẾ BÀO, SỰ SINH TỒN VÀ TĂNG TRƯỞNG TRONG TETRAHYMENA THERMOPHILA. TÁC ĐỘNG CỦA INSULIN, SODIUM NITROPRUSSIDE, 8‐BROMO CYCLIC GMP, NG‐METHYL‐L‐ARGININE VÀ METHYLENE BLUE Dịch bởi AI
Tập 20 Số 10 - Trang 653-666 - 1996
Søren T. Christensen, K. Kemp, HELENE QUIE, Leif Rasmussen

Các tế bào của sinh vật đơn bào Tetrahymena thermophila sản xuất các hợp chất có tác dụng như các yếu tố tồn tại và/hoặc tăng trưởng tự tiết (bán tiết). 8‐Bromo cyclic GMP, sodium nitroprusside, hemin, protoporphyrin IX, insulin tái tổ hợp của người và insulin bò đã được thử nghiệm khả năng thay thế cho các yếu tố do tế bào sản xuất và kích thích sự sống sót và tăng sinh của tế bào. Các tế bào được cấy vào flask hình nón trong môi trường dinh dưỡng hoàn chỉnh, có thành phần hóa học xác định với mật độ tế bào từ 5 đến 5000 tế bào/ml. Trong môi trường không bổ sung, tế bào với mật độ từ 5 đến 500 tế bào/ml (‘nuôi cấy có mật độ tế bào ban đầu thấp’) đã chết trong vòng 8 giờ, trong khi tế bào ở mật độ 1000 và 5000 tế bào/ml (‘nuôi cấy có mật độ tế bào ban đầu cao’) đã tăng sinh với giai đoạn đình trệ kéo dài lên tới 4 giờ. Trong sự hiện diện của các hợp chất insulin, hemin, protoporphyrin IX hoặc 8‐bromo cyclic GMP, các tế bào cũng tăng sinh ở tất cả các mật độ tế bào ban đầu thấp. Sodium nitroprusside có hiệu quả ở hai dải nồng độ khác nhau: ở mức nanomolar cũng như ở mức pico đến femtomolar thấp. Tại mật độ quần thể ban đầu lên đến 50 tế bào/ml, các tế bào ở cả hai nồng độ sodium nitroprusside sống lâu gấp khoảng 4 lần so với nhóm kiểm soát. Tại mật độ 500 tế bào/ml, các tế bào ở nồng độ cao của sodium nitroprusside sống lâu gấp khoảng 4 lần so với các tế bào của các nuôi cấy kiểm soát; chúng tăng sinh ở nồng độ thấp của sodium nitroprusside. Nồng độ hemin, quá thấp để có bất kỳ tác động nào riêng lẻ, đã có tác động hiệp lực với sodium nitroprusside. NG‐methyl‐L‐arginine ức chế sự tăng sinh ở mật độ tế bào ban đầu cao. Hành động ức chế này đã được giảm bớt bởi nồng độ cao của L‐arginine, protoporphyrin IX, sodium nitroprusside hoặc 8‐bromo cGMP, nhưng không phải do insulin. Methylene blue đã ức chế sự tăng sinh của tế bào ở mật độ tế bào ban đầu cao. Sự ức chế này đã được vượt qua bằng cách thêm 8‐bromo cGMP. Các phát hiện rằng vật liệu liên quan đến insulin có thể được giải phóng từ Tetrahymena và rằng insulin và sodium nitroprusside làm tăng cGMP nội bào trong các tế bào này được thảo luận liên quan đến các kết quả đã trình bày. Tất cả các quan sát này cho thấy rằng cGMP có vai trò hỗ trợ sự sống sót của tế bào trong Tetrahymena và chuyển các tế bào sang chế độ tăng sinh của chúng, và rằng các phân tử tín hiệu do tế bào sản xuất và insulin kích thích một guanylate cyclase phụ thuộc vào NO để sản xuất cGMP.

Chống tăng sinh và apoptosis do một chuyển hóa nội sinh mới của saponin nhân sâm trong tế bào ung thư biểu mô gan người Dịch bởi AI
Tập 31 Số 10 - Trang 1265-1273 - 2007
Yanlin Ming, Gang Song, Lianghua Chen, Zhizhong Zheng, Zhongyan Chen, Gaoliang Ouyang, Qingxuan Tong
Tóm tắt

20‐O‐(β‐d‐glucopyranosyl)‐20(S)‐protopanaxadiol (IH‐901), một chuyển hóa vi khuẩn ruột mới của saponin protopanaxadiol trong nhân sâm, được báo cáo là có khả năng gây apoptosis trong nhiều loại tế bào ung thư. Chúng tôi đã tinh chế hợp chất và đo hoạt tính chống u in vitro của nó. IH‐901 ức chế sự phát triển tế bào của dòng tế bào ung thư gan người SMMC7721 theo cách phụ thuộc vào liều lượng và thời gian. Chúng tôi cũng phát hiện rằng IH‐901 gây ra cái chết tế bào apoptotic đồng thời với sự ngừng chu kỳ tế bào ở pha G0–G1 trong các tế bào SMMC7721. Ở mức độ phân tử, chúng tôi cho thấy rằng IH‐901 làm tăng cường biểu hiện cytochrome c, p53, và Bax, và giảm biểu hiện pro‐caspase‐3 và pro‐caspase‐9 theo cách phụ thuộc vào liều lượng, trong khi các mức độ của Bcl‐2 và Bcl‐XL không thay đổi trong các tế bào SMMC7721 được điều trị bằng IH‐901. Những kết quả này cung cấp những hiểu biết quan trọng về tác động chống ung thư của IH‐901.