Suy giảm chức năng là gì? Các công bố khoa học về Suy giảm chức năng

Suy giảm chức năng là tình trạng mất đi hoặc giảm sút khả năng hoạt động của một cơ quan, hệ thống cơ thể hoặc bất kỳ thành phần nào của cơ thể. Suy giảm chức n...

Suy giảm chức năng là tình trạng mất đi hoặc giảm sút khả năng hoạt động của một cơ quan, hệ thống cơ thể hoặc bất kỳ thành phần nào của cơ thể. Suy giảm chức năng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như tuổi tác, bệnh lý, thói quen sống không lành mạnh, thiếu dinh dưỡng, môi trường ô nhiễm, stress, v.v. Suy giảm chức năng có thể đối với cả cơ thể và tinh thần, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày.
Suy giảm chức năng có thể xảy ra ở nhiều phần khác nhau của cơ thể, bao gồm cả cơ bắp, xương, tim, phổi, não, gan, thận và nguyên bào máu. Các triệu chứng của suy giảm chức năng có thể bao gồm sự mệt mỏi, giảm cân đột ngột, khó chịu, đau đớn, khó thở, suy dinh dưỡng và suy giảm sức đề kháng. Các yếu tố nguy cơ gây suy giảm chức năng có thể bao gồm tuổi tác, stress, cách sống không lành mạnh, gen di truyền và môi trường sống. Việc duy trì cân nặng lành mạnh, tập thể dục đều đặn và ăn uống cân đối có thể giúp hạn chế nguy cơ suy giảm chức năng. Ngoài ra, việc điều trị sớm và theo dõi y tế định kỳ cũng rất quan trọng để giảm thiểu tác động của suy giảm chức năng.
Cụ thể hơn, suy giảm chức năng có thể xảy ra ở nhiều bộ phận khác nhau trong cơ thể. Ví dụ, suy giảm chức năng tim có thể dẫn đến việc tim không đưa máu đủ tới các bộ phận khác trong cơ thể, gây ra các triệu chứng như đau ngực, mệt mỏi, và thậm chí có thể dẫn đến cơn đau thắt ngực. Suy giảm chức năng thận có thể dẫn đến tình trạng thận không hoạt động hiệu quả, làm tăng nguy cơ sỏi thận và rối loạn chức năng thận.

Việc phát hiện sớm và điều trị các tình trạng suy giảm chức năng rất quan trọng để ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm. Điều này có thể bao gồm sự can thiệp y tế, thay đổi lối sống và chế độ ăn uống, hoặc chất xúc tác y tế.

Ngoài ra, thường xuyên kiểm tra sức khỏe và theo dõi các dấu hiệu hoặc triệu chứng của suy giảm chức năng là rất quan trọng, đặc biệt đối với những người ở độ tuổi cao và những người có tiền sử bệnh lý nguy cơ.
Suy giảm chức năng cũng có thể ảnh hưởng đến tinh thần, gây ra các vấn đề như trầm cảm, lo âu, mất trí nhớ và sự thay đổi tính cách. Nguyên nhân của suy giảm chức năng tinh thần có thể bao gồm bệnh Alzheimer, Parkinson, và các bệnh lý liên quan đến tuổi tác.

Ngoài ra, tính trạng suy giảm chức năng cũng có thể dẫn đến suy dinh dưỡng, do cơ thể không hấp thụ và sử dụng chất dinh dưỡng tốt. Suy dinh dưỡng có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như giảm miễn dịch, suy giảm cơ bắp, và suy thận.

Việc duy trì một lối sống lành mạnh và đủ dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe định kỳ, và tìm kiếm sự can thiệp y tế khi cần thiết là cách hiệu quả để giảm nguy cơ suy giảm chức năng cả thể chất lẫn tinh thần.

Thêm vào đó, suy giảm chức năng cũng có thể bao gồm sự suy yếu của hệ miễn dịch, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng và các bệnh lý khác. Ngoài ra, sự suy giảm chức năng thận có thể gây ra tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa và dẫn đến các biến chứng thận nghiêm trọng.

Việc quản lý cân nặng, duy trì sức khỏe tinh thần, chăm sóc sức khỏe toàn diện và kiểm soát các bệnh lý tiền sử là quan trọng trong việc ngăn ngừa suy giảm chức năng. Nhận biết và can thiệp sớm khi có các triệu chứng của suy giảm chức năng cũng rất quan trọng để ngăn chặn các tác động tiêu cực lâu dài lên sức khỏe và chất lượng cuộc sống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "suy giảm chức năng":

HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA PHÁC ĐỒ BORTEZOMIB, CYCLOPHOSPHAMIDE VÀ DEXAMETHASONE (VCD) TRÊN BỆNH NHÂN ĐA U TỦY CÓ SUY GIẢM CHỨC NĂNG THẬN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Đa u tủy là một bệnh lý ung thư huyết học thường gặp, gây rối loạn chức năng nhiều cơ quan. Tổn thương thận là một trong những biến chứng phổ biến nhất của bệnh đa u tủy. Nhiều khuyến cáo trên thế giới hiện nay đã lựa chọn phác đồ VCD (bortezomib, cyclophosphamide và dexamethasone) là phác đồ ưu tiên cho bệnh nhân đa u tủy có suy giảm chức năng thận. Tại Việt Nam còn ít nghiên cứu về vấn đề này. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị của phác đồ bortezomib, cyclophosphamide và dexamethasone (VCD) trên bệnh nhân đa u tủy mới chẩn đoán có suy giảm chức năng thận. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện tại khoa Huyết học bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ năm 2015-2020 ở bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, mới được chẩn đoán đa u tủy và có tăng creatinin máu > 2 mg/dL hoặc giảm độ lọc cầu thận eGFR < 60 mL/phút/1.73m2, được điều trị bằng phác đồ bortezomib, cyclophosphamide và dexamethasone (VCD). Kết quả: Chúng tôi thu thập được 40 bệnh nhân có độ tuổi là 53,4 ± 9,5 tuổi, nam giới chiếm 77,5%, creatinin máu là 4,6 ± 3,2mg/dL. Sau hoá trị với 4 chu kỳ bằng phác đồ VCD có 77% bệnh nhân đạt đáp ứng lui bệnh một phần hoặc hơn (³ PR), trong đó đạt lui bệnh một phần rất tốt (VGPR) là 27%. Tỷ lệ đáp ứng thận nói chung đạt 85%, trong đó 57% đáp ứng hoàn toàn (CRrenal), 10% đáp ứng một phần (PRrenal) và 18% đáp ứng tối thiểu (MRrenal). Có sự tương quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa đáp ứng thận và đáp ứng lui bệnh sau hoá trị với p = 0,002. Kết luận: Phác đồ VCD có hiệu quả điều trị cao trong cả đáp ứng lui bệnh và cải thiện chức năng thận trên bệnh nhân đa u tuỷ mới chẩn đoán có suy giảm chức năng thận.
#đa u tuỷ #suy giảm chức năng thận #bortezomib #cyclophosphamide #dexamethasone
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG VÀ NHU CẦU CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả tình trạng chức năng, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người từ 60 tuổi trở lên tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019 trên 932 người từ 60 tuổi trở lên đang sinh sống trên 3 vùng sinh thái thuộc địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế bằng hình thức phỏng vấn. Kết quả: 932 người cao tuổi từ 60 trở lên với độ tuổi trung bình là 72,71 ± 6,64. 29,1% người cao tuổi  gặp các vấn đề về suy giảm nhận thức, Chức năng thị giác (nhìn), thính giác (nghe) càng suy giảm ở độ tuổi càng cao. Tăng huyết áp và các bệnh về cơ xương khớp là các bệnh phổ biến nhất ở người cao tuổi. 89,2% người cao tuổi sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong 3 năm gần đây, các cơ sở Y tế công lập như Bệnh viện công, trạm Y tế là các cơ sở được sử dụng nhiều. Nhu cầu kiểm tra sức khỏe định kỳ, nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại nhà và nhu cầu tư vấn thông tin sức khỏe là 3 nhu cầu cao nhất ở người cao tuổi được phỏng vấn. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy thực trạng sức khỏe cũng như suy giảm chức năng và tình trạng khuyết tật (ghi nhớ, nhìn, nghe và đi lại) ở người cao tuổi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đối tượng có nhu cầu khá cao về chăm sóc sức khỏe với xu hướng già hóa dân số hiện nay. Nhu cầu chăm sóc phù hợp với bối cảnh văn hóa, nên được quan tâm hơn, về chính sách cho người cao tuổi ở Việt Nam.
#Người cao tuổi #nhu cầu #chăm sóc sức khỏe #suy giảm chức năng
ĐẶC ĐIỂM SUY GIẢM CHỨC NĂNG TRÍ NHỚ TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH TRƯỞNG THÀNH TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Bệnh động kinh gây hậu quả là cơn động kinh và có thể gây tổn thương các chức năng cao cấp của não trong đó có chức năng trí nhớ. Điều này dẫn đến suy giảm chất lượng cuộc sống đối với bệnh nhân động kinh. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng suy giảm chức năng trí nhớ trên bệnh nhân động kinh trưởng thành. Đối  tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 144 bệnh nhân được chẩn đoán động kinh theo tiêu chuẩn của Liên hội chống động kinh quốc tế (International League Against Epilepsy) tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 07 năm 2020 đến tháng 07 năm 2021. Kết quả: Có 78 bệnh nhân nam và 66 bệnh nhân nữ với độ tuổi trung bình là 44,2 ± 9,1.Độ tuổi khởi cơn động kinh lần đầu hay gặp nhất ở nhóm dưới 18 tuổi, sau 60 tuổi thì tỷ lệ này cũng có xu hướng tăng lên. Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu, bệnh nhân xuất hiện cơn động kinh cục bộ đơn thuần là nhiều nhất (38,9%,), số lượng bệnh nhân xuất hiện cơn cục bộ phức hợp ít nhất (11,1%). Tỷ lệ bệnh nhân động kinh bị suy giảm trí nhớ là 34,0%, trong đó nam giới chiếm 33,3%, nữ giới chiếm 34,8%, không có sự khác biệt về tỉ lệ suy giảm trí nhớ ở 2 giới.Bệnh nhân có tần suất cơn động kinh dày tỷ lệ bị suy giảm trí nhớ là 58,3%, bệnh nhân bị bệnh kéo dài trên 5 năm tỷ lệ suy giảm trí nhớ là 55,8%. Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân động kinh có tỷ lệ suy giảm trí nhớ tương đối cao, chiếm 34,0%. Bệnh nhân có thời gian mắc bệnh càng lâu, tần suất xuất hiện cơn động kinh càng dày thì tỷ lệ suy giảm trí nhớ càng cao, vì vậy cần có sự can thiệp điều trị tích cực hơn ở nhóm này.
#Bệnh động kinh #cơn động kinh #chức năng trí nhớ
KHẢO SÁT VIỆC HIỆU CHỈNH LIỀU THUỐC THEO CHỨC NĂNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát việc hiệu chỉnh liều thuốc theo chức năng thận ở bệnh nhân có chức năng thận suy giảm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên bệnh nhân có CrCl < 60 mL/phút, từ 01/01/2021 đến 31/01/2021 tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Nội dung khảo sát bao gồm đặc điểm bệnh nhân suy giảm chức năng thận, sự phù hợp về hiệu chỉnh liều và các yếu tố liên quan. Việc hiệu chỉnh liều được xem là phù hợp nếu tuân thủ theo tờ hướng dẫn sử dụng thuốc. Kết quả: Trên 111 bệnh nhân, có tổng cộng 4150 lượt kê đơn, trong đó 14,5% (603/4150) lượt kê cần hiệu chỉnh liều. Có 37,1% (225/603) lượt kê có liều hiệu chỉnh không phù hợp. Kháng sinh là nhóm thuốc cần hiệu chỉnh liều nhiều nhất (65,5%). Levofloxacin, piperacillin/ tazobactam và ciprofloxacin có tỉ lệ lượt kê với liều không phù hợp lần lượt là 63,4%, 22,4% và 45,8%. Các yếu tố liên quan đến việc kê đơn liều không phù hợp bao gồm khoa Lão, bệnh kèm liên quan đến thận, số lượng thuốc cần hiệu chỉnh liều. Kết luận: Cần theo dõi và tư vấn cho nhân viên y tế về việc hiệu chỉnh liều theo chức năng thận.
#suy giảm chức năng thận #hiệu chỉnh liều
ĐÁNH GIÁ SỰ SUY GIẢM CHỨC NĂNG TÌNH DỤC LIÊN QUAN HÓA TRỊ Ở PHỤ NỮ UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá sự suy giảm chức năng tình dục trên bệnh nhân nữ ung thư vú được hóa trị. Phương pháp nghiên cứu: 70 bệnh nhân nữ ung thư vú hóa trị bổ trợ, tân bổ trợ tại khoa Nội 5, bệnh viện K từ tháng 4, 2019 đến tháng 12, 2019 được đánh giá chức năng tình dục trước điều trị và sau 2 chu kỳ hóa trị. Đánh giá chức năng tình dục theo bảng chỉ số chức năng tình dục nữ (FSFI) phiên bản 2000. Kết quả: 81,4% bệnh nhân được hóa trị phác đồ AC (doxorubicin, cyclophosphamide). Tỷ lệ bệnh nhân mất kinh tăng từ 11,4% lên 37,2%. Điểm số của cả 6 lĩnh vực trong hoạt động tình dục đều bị suy giảm sau 2 chu kỳ hóa trị. 93,4% bệnh nhân có sự suy giảm chức năng tình dục sau 2 chu kỳ hóa trị. Các phác đồ hóa trị đều gây giảm chức năng tình dục cả trên bệnh nhân còn kinh nguyệt và đã mãn kinh. Kết luận: hóa trị gây suy giảm chức năng tình dục ở đa số bệnh nhân nữ ung thư vú. 
#chức năng tình dục nữ #suy giảm chức năng #ung thư vú #hóa trị
Thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân suy giảm chức năng thận tại Bệnh viện Quân đội Trung ương 108
Mục tiêu: Xây dựng danh mục thuốc chống chỉ định trên bệnh nhân suy giảm chức năng thận dựa trên đồng thuận tài liệu và phân tích thực trạng sử dụng tại Bệnh viện Trung ương Quân đội (TWQĐ) 108. Đối tượng và phương pháp: Danh mục thuốc theo mức lọc cầu thận (MLCT) khuyến cáo chống chỉ định theo MLCT được xây dựng dựa trên sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý trên thế giới. Thực trạng sử dụng thuốc được xác định bằng nghiên cứu hồi cứu lượt kê đơn thuốc trên bệnh án điện tử của bệnh nhân tại Bệnh viện TWQĐ 108 trong khoảng thời gian 6 tháng cuối năm 2022. Các dữ liệu được thu thập bao gồm: Tuổi bệnh nhân, giới tính, cân nặng, bệnh mắc kèm, tiền sử dùng thuốc và kết quả xét nghiệm creatinin. Kết quả: Từ hơn 2500 thuốc thuộc danh mục của bệnh viện, 14 hoạt chất đủ điều kiện đưa vào danh mục nghiên cứu. Trong số 143261 lượt kê đơn từ tháng 7/2022 tới tháng 12/2022, 485 lượt thuốc có khuyến cáo ở mức độ chống chỉ định được phát hiện (chiếm 0,34%). Ngoài ra, với 95396 bệnh nhân được kê đơn ít nhất một loại thuốc trong danh mục vừa xây dựng, 0,16% (n = 151) bệnh nhân có sử dụng ít nhất một loại thuốc có khuyến cáo mức độ chống chỉ định. Franilaxâ (Spironolacton & Furosemid) là thuốc gặp phải phổ biến nhất, chiếm 64,3% tổng số bệnh nhân. Kết luận: Nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho thấy sự cần thiết để bệnh viện xây dựng quy trình quản lý sử dụng thuốc trên bệnh nhân suy thận nặng. Việc ứng dụng CDSS vào phần mềm kê đơn có thể là một giải pháp cho thực trạng này.
#Suy thận nặng #thuốc chống chỉ định #sai sót sử dụng thuốc #an toàn thuốc #bệnh án điện tử.
KẾT QUẢ ỨNG DỤNG XẠ HÌNH THẬN ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH PHỐ
Đặt vấn đề: Xạ hình thận động từ lâu đã trở thành một trong những kỹ thuật hữu ích khảo sát chức năng của thận và hệ thống bài xuất, đào thải nước tiểu ở cả người lớn và trẻ em. So với người lớn, đây là xét nghiệm được ứng dụng rộng rãi hơn cả và chiếm hơn nửa số chỉ định bệnh nhi đến với đơn vị xạ hình. Tại bệnh viện Nhi đồng thành phố, xạ hình thận động đã được triển khai từ đầu năm 2018 và bước đầu cho thấy vai trò của nó trong việc hỗ trợ quyết định theo dõi và điều trị trên các bệnh nhi. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm thống kê và đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả ứng dụng kỹ thuật xạ hình thận động với dược chất phóng xạ 99mTc-DTPA trên bệnh nhân trẻ em tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố.   Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang dựa trên hồ sơ bệnh án và kết quả chụp xạ hình thận động sử dụng 99mTc – DTPA có test thử thách lợi tiểu của 671 bệnh nhi từ 01 tháng đến 15 tuổi được ghi hình ít nhất 1 lần tại bệnh viện Nhi đồng thành phố từ tháng 06 năm 2018 đến tháng 03 năm 2022. Kết quả: Có tổng cộng 740 lần ghi hình bao gồm 611 trẻ chụp 1 lần, 52 trẻ chụp 2 lần, 7 trẻ chụp 3 lần, 1 trẻ chụp 4 lần. Trong đó, có 454 trẻ nam và 217 trẻ nữ với tỉ lệ nam/nữ là 2/1. Độ tuổi của các bệnh nhi tại thời điểm xạ hình dao động khá nhiều, từ 01 tháng cho đến 15 tuổi. Tuy nhiên, có sự phân bố ưu thế rõ ràng đối với nhóm bệnh nhi dưới 5 tuổi, chiếm 516 trường hợp (~69,7%%), gấp khoảng hơn 3 lần số lần chụp đối với nhóm bệnh nhi từ 5 đến 10 tuổi và gấp khoảng hơn 10 lần so với nhóm bệnh nhi trên 10 tuổi, lần lượt là 175 trường hợp (~23,7%) và 49 trường hợp (~6,6%). Các bệnh nhi xạ hình đến từ nhiều vị trí địa lý khác nhau trong cả nước, tuy nhiên phần lớn các trường hợp nằm trong địa phận thành phố Hồ Chí Mính với 218 trường hợp, chiếm ~ 30% tổng số, theo sau đó là từ các tỉnh miền tây và miền trung, cũng như khu vực Tây Nguyên. Tất cả những bệnh nhi này đều được chẩn đoán, theo dõi, điều trị tại 03 bệnh viện nhi lớn của Thành phố Hồ Chí Minh là Bệnh viện Nhi đồng 1, Bệnh viện Nhi đồng 2 và Bệnh viện Nhi đồng thành phố với tỉ lệ lần lượt là 248 bệnh nhi (36,9%), 313 bệnh nhi (46,6%) và 111 bệnh nhi (~16,5%). Theo đó, việc chẩn đoán, theo dõi bằng kỹ thuật xạ hình thận động sẽ được thực hiện toàn bộ tại Đơn vị Y học hạt nhận của Bệnh viện nhi đồng thành phố. Về mặt chẩn đoán trước xạ hình, sau khi đã xem xét kết quả hình ảnh học giải phẫu, ghi nhận có 436 bệnh nhi (~65,0 %) có tình trạng Thận trái ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên, 154 bệnh nhi (~ 23,0 %) có tình trạng Thận phải ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên, 74 bệnh nhi (~ 11,1 %) có tình trạng Thận ứ nước hai bên có/không kèm dãn niệu quản, và một số ít còn lại gồm 6 bệnh nhi (~ 0,9 %) có các tình trạng bệnh lý như: 02 trẻ có bàng quang thần kinh, 02 trẻ có thận phải loạn sản đa nang, 01 trẻ u thận trái và 01 trẻ có bệnh lý ống thận. Về mặt đánh giá kết quả xạ hình, trong nhóm bệnh nhi Thận trái ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên (N = 436), ghi nhận 163 trẻ (~ 37,3 %) có suy giảm chức năng thận (chức năng tương đối DRF < 40 %), 323 trẻ (~ 74,0 %) có tắc nghẽn đường bài niệu (chỉ số T½ kéo dài trên 20 phút), 99 trẻ (~ 22,7%) có tắc nghẽn đường bài niệu kèm suy giảm chức năng thận, và 37 trẻ (~ 8,4 %) có suy giảm chức năng thận nặng gây hạn chế trong việc khảo sát tắc nghẽn đường bài niệu. Trong nhóm bệnh nhi Thận phải ứ nước có/không kèm dãn niệu quản cùng bên (N = 154), ghi nhận 44 trẻ (~ 28,5 %) có suy giảm chức năng thận, 69 (~ 44,8 %) có tắc nghẽn đường bài niệu, 24 trẻ (~ 15,5%) có tắc nghẽn đường bài niệu kèm suy giảm chức năng thận, 5 trẻ (~ 3,2 %) có suy giảm chức năng thận nặng gây hạn chế trong việc khảo sát tắc nghẽn đường bài niệu. Tương tự, trong nhóm bệnh nhi Thận ứ nước hai bên có/không kèm dãn niệu quản (N = 74), ghi nhận 31 trẻ (~ 41,8 %) có suy giảm chức năng thận ở một trong hai thận, 45 trẻ (~ 60,0 %) có tắc nghẽn đường bài niệu ở một hoặc hai bên, 02 trẻ (~ 2,7 %) có tắc nghẽn đường bài niệu kèm suy giảm chức năng thận, và có 6 trẻ (~ 8,1 %) có suy giảm chức năng thận nặng gây hạn chế trong việc khảo sát tắc nghẽn đường bài niệu. Thêm vào đó, ở tất cả bệnh nhi được thực hiện ít nhất 2 lần xạ hình (N = 60), ghi nhận có  18 trẻ (~ 30,0 %) phát hiện suy giảm chức năng thận (DRF giảm trên 5 % khi theo dõi) và có 8 trẻ (~ 13,3%) gia tăng tình trạng tắc nghẽn đường bài niệu (biểu hiện bằng sự thay đổi đường cong hoạt độ phóng xạ theo thời gian). Khoảng cách thời gian xạ hình theo dõi dao động từ 3 tháng đến 24 tháng, tuy nhiên đa phần các trường hợp này phát hiện trong vòng 12 tháng đầu từ lần xạ hình đầu tiên. Như vậy, chúng tôi nhận thấy trong 671 bệnh nhi xạ hình lần đầu, có 125 trường hợp (~ 18,6 %) dãn đài bể thận niệu quản kèm suy giảm chức năng thận và trong 60 bệnh nhi xạ hình theo dõi ít nhất 2 lần, có 18 trường hợp (~ 30 %) phát hiện suy giảm chức năng thận ở các lần ghi hình sau. Đây là nhóm đối tượng có nguy cơ diễn tiến đến mất chức năng thận. Kết luận: Xạ hình thận động với 99mTc DTPA hiện nay vẫn còn là một trong những công cụ quan trọng trong việc chẩn đoán và theo dõi bệnh lý thận ứ nước ở trẻ em, đặc biệt là vai trò phát hiện sớm tình trạng thận có nguy cơ diễn tiến đến mất chức năng nhằm mục đích có biện pháp can thiệp kịp thời để bảo tồn chức năng thận. Việc ứng dụng kỹ thuật này tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố bước đầu đã cho thấy những lợi ích mang lại cho bệnh nhi cũng như nhà thực hành lâm sàng một công cụ đắc lực cho quyết định điều trị bên cạnh các kỹ thuật hình ảnh học khác.
#99mTc DTPA #Xạ hình thận động #Thận ứ nước #Tắc nghẽn đường bài niệu #Suy giảm chức năng thận #.
ĐÁNH GIÁ VẬN ĐỘNG MÔI LƯỠI Ở NGƯỜI CAO TUỔI: TỔNG QUAN MÔ TẢ
Kỷ nguyên lão hóa đặt ra nhiều thách thức to lớn trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Một trong những vấn đề phổ biến thường gặp là vấn đề suy giảm sức khỏe răng miệng. Môi và lưỡi đóng vai trò then chốt trong các vận động chức năng của răng miệng, và chúng cũng chịu ảnh hưởng của quá trình lão hóa. Bài báo cáo đưa ra cái nhìn tổng quan về sự thay đổi từ cấu trúc đến chức năng của môi, lưỡi do quá trình lão hóa tác động. Các thay đổi bao gồm sự suy giảm sức mạnh và linh hoạt cơ môi-lưỡi, sự thay đổi hình dạng và cấu trúc gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ, khả năng phát ăn, nhai và nuốt thức ăn. Bên cạnh đó, một số phương pháp thực hiện và đánh giá những thay đổi của môi lưỡi cũng sẽ được tóm tắt trong báo cáo này.
#lão nha #suy giảm chức năng răng miệng #vận động môi lưỡi #phép đo ODK #đánh giá tốc độ phát âm
CHỨC NĂNG NHĨ TRÁI TRÊN SIÊU ÂM ĐÁNH DẤU MÔ Ở BỆNH NHÂN SUY TIM MẠN TÍNH CÓ PHÂN SUÂT TỐNG MÁU GIẢM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Mở đầu: Ở bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu giảm, tái cấu trúc nhĩ trái thường dẫn tới giãn nhĩ trái ở giai đoạn muộn. Siêu âm đánh dấu mô cho phép lượng giá những thay đổi kín đáo của chức năng nhĩ trái và dự báo tiên lượng cho các bệnh nhân suy tim. Mục tiêu: Khảo sát một số chỉ số kích thước và chức năng nhĩ trái trên siêu âm đánh dấu mô cơ tim ở bệnh nhân suy tim mạn tính có phân suất tống máu giảm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân suy tim mạn tính có phân suất tống máu giảm (EF ≤ 40%) không có bệnh van tim thực thể nặng hay bệnh tim bẩm sinh và nhóm chứng bao gồm những người khỏe mạnh, cùng tuổi, cùng giới, không có biểu hiện suy tim trên lâm sàng và cấu trúc chức năng tim bình thường trên siêu âm tim. Tất cả các đối tượng nghiên cứu được làm siêu âm tim đánh giá kích thước và chức năng tim và đánh giá sức căng đỉnh nhĩ trái trên siêu âm đánh dấu mô cơ tim trên mặt cắt bốn buồng và mặt cắt hai buồng tim từ mỏm. Kết quả: Trong thời gian từ 02/2022 đến tháng 7/2022, 188 đối tượng nghiên cứu gồm 126 bệnh nhân suy tim phân suất tống máu EF giảm EF ≤40%, nam 78,6%, nữ 21,4%, tuổi trung bình là 59,3 ± 16,4 tuổi và nhóm chứng gồm 62 người khoẻ mạnh được đưa vào nghiên cứu. Ở các bệnh nhân suy tim phân suất tống máu giảm, bệnh đồng mắc hay gặp nhất là bệnh mạch vành (38,1%) sau đó là tăng huyết áp (31,3%) và đái tháo đường (9,5%). Sức căng nhĩ trái ở mặt cắt 4 buồng và 2 buồng lần lượt là (17,7±7,5% )và (15,5±7,1%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng khỏe mạnh. Các bệnh nhân có phì đại thất trái có sức căng nhĩ trái (13,94±6,96%) đo ở mặt cắt 4 buồng và (15,92±7,35%) đo ở mặt cắt 2 buồng, thấp hơn so với các bệnh nhân không có phì đại thất trái lần lượt ở các mặt cắt 4 buồng và 2 buồng là (16,63±6,38%) và (19,40±6,71%), (p<0,05). Các bệnh nhân có giãn buồng thất trái có sức căng nhĩ trái (13,39±6,90%) đo ở mặt cắt 4 buồng và (15,19±7,35%) đo ở mặt cắt 2 buồng, thấp hơn rõ rệt so với các bệnh nhân không có giãn buồng thất trái lần lượt là (18,37±5,86 %) và (21,16±5,88%). (p<0,05). Các bệnh nhân có hở hai lá vừa có sức căng nhĩ trái thấp nhất (13,36±6,48%) ở mặt cắt 4 buồng và (15,36±7,24%) ở mặt cắt 2 buồng, rồi đến các bệnh nhân có hở hai lá nhẹ(15,25±7,14%) và (17,45±7,20%), ở các mặt cắt 4 buồng và 2 buồng tương ứng, rồi đến các bệnh nhân không có hở hai lá (18,43±6,24%) và (20,89±6,54%), cũng với mặt cắt 4 buồng và 2 buồng tương ứng, (p<0,05). Các bệnh nhân có tăng áp lực ĐMP trên siêu âm có sức căng nhĩ trái (14,92± 6,82%), (17,10±7,14%) ở mặt cắt 4 buồng và 2 buồng  thấp hơn rõ rệt so với các bệnh nhân không có tăng áp lực ĐMP với sức căng lần lượt ở các mặt cắt 4 buồng và 2 buồng là (19,17±7,09%) và (21,50±7,94%) (p<0,05). Kết luận: Các bệnh nhân suy tim phân suất tống máu giảm có chỉ số sức căng nhĩ trái thấp hơn ở người khoẻ mạnh, có liên quan với triệu chứng cơ năng và với phì đại thất trái và giãn buồng thất trái và với hở hai lá và tăng áp lực động mạch phổi.
#suy tim phân suất tống máu giảm #sức căng nhĩ trái #chức năng nhĩ trái.
So sánh hiệu quả Ketofol và Etomidate trong khởi mê bệnh nhân suy giảm chức năng thất trái được phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành
Khởi mê là giai đoạn có nhiều biến động về huyết động, làm mất cân bằng giữa nhu cầu và cung cấp oxy cơ tim, gây ra tình trạng thiếu máu cơ tim trên những BN đã có tổn thương mạch vành và suy giảm chức năng tâm thu thất trái. Chính vì vậy, duy trì ổn định huyết động trong quá trình khởi mê là cực kỳ quan trọng. Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả sự thay đổi một số giá trị huyết động và đánh giá chất lượng đặt nội khí quản (NKQ) trong quá trình khởi mê khi sử dụng ketofol và etomidate trên bệnh nhân suy giảm chức năng thất trái được phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ - động mạch vành. Đối tượng và phương pháp: Tổng số 159 BN người lớn được phẫu thuật bắc cẩu chủ vành với tuần hoàn ngoài cơ thể tại Khoa Gây mê hồi sức-Bệnh viện Tim Hà Nội trong nghiên cứu được chia làm 2 nhóm: 83 BN nhóm ketofol (được tiêm tĩnh mạch 0,75mg/kg ketamin + 1,5mg/kg propofol) và 76 BN nhóm etomidate được tiêm tĩnh mạch etomidate liều 0,2mg/kg. Chúng tôi ghi nhận các biến số huyết áp động mạch tâm thu (SAP), huyết áp động mạch tâm trương (DAP), huyết áp động mạch trung bình (MAP), nhịp tim (HR) tại các thời điểm trước khởi mê, sau đặt NKQ và chất lượng đặt NKQ. Kết quả: Huyết áp giảm nhiều nhất từ thời điểm trước khởi mê cho đến trước lúc đặt NKQ và sau đó duy trì ở mức ổn định tại thời điểm sau đặt NKQ 1 phút, 2 phút và 3 phút ở cả hai nhóm nghiên cứu (p>0.05). Nhịp tim ở nhóm ketofol không tăng lên trong quá trình khởi mê, mặt khác có xu hướng giảm (5±8%) và khi so sánh với nhóm etomidate thì không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p=0.283). Chất lượng đặt ống NKQ khi sử dụng ketofol (rất tốt 51,8%; tốt 48,2%) tương tự như sử dụng etomidate (rất tốt 52,6%; tốt 47,4%). Kết luận: Sử dụng ketofol và etomidate khởi mê cho thấy sự ổn định huyết động và chất lượng đặt NKQ là như nhau trên BN phẫu thuật CABG có suy giảm chức năng thất trái.[1]
#ketofol #etomidate #ketamine #rối loạn chức năng thất trái
Tổng số: 19   
  • 1
  • 2