Scholar Hub/Chủ đề/#sa sút trí tuệ/
Sa sút trí tuệ biểu hiện qua sự suy giảm trí nhớ, tư duy và khả năng sinh hoạt, không phải là bệnh cụ thể mà là tình trạng do biến đổi não bộ. Nguyên nhân chủ yếu là bệnh Alzheimer, chiếm 60-80% các ca, và các bệnh khác như bệnh lý mạch máu não, Parkinson. Triệu chứng tiến triển từ khó nhớ chi tiết, quản lý tài chính đến mất trí nhớ nặng và thay đổi tính cách. Điều trị chưa thể chữa dứt điểm, chủ yếu nhằm quản lý triệu chứng, cải thiện cuộc sống. Phòng ngừa qua lối sống lành mạnh, hoạt động trí tuệ và kiểm soát bệnh mãn tính.
Sa Sút Trí Tuệ
Sa sút trí tuệ là một thuật ngữ tổng hợp được sử dụng để mô tả một loạt các triệu chứng liên quan đến sự suy giảm trí nhớ, tư duy và khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày. Đây không phải là một bệnh cụ thể mà là một tình trạng chung phản ánh những thay đổi trong não bộ do các yếu tố khác nhau gây ra.
Nguyên Nhân và Các Bệnh Liên Quan
Sa sút trí tuệ có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó bệnh Alzheimer là phổ biến nhất, chiếm 60-80% các trường hợp. Ngoài ra, các bệnh như bệnh lý mạch máu não, bệnh Parkinson, và thậm chí là tình trạng nhiễm trùng hoặc tổn thương não cũng có thể dẫn đến sa sút trí tuệ.
Các Triệu Chứng
Các triệu chứng của sa sút trí tuệ thường phát triển từ từ và có xu hướng xấu đi theo thời gian. Ban đầu, người bệnh có thể gặp khó khăn trong việc nhớ lại các sự kiện gần đây hoặc quản lý tài chính cá nhân. Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có thể bao gồm:
- Mất trí nhớ nghiêm trọng.
- Khó khăn trong việc giao tiếp hoặc diễn đạt ý tưởng.
- Thay đổi tính cách đáng kể.
- Giảm khả năng giải quyết vấn đề hoặc thực hiện công việc hàng ngày.
- Ảo giác hoặc khó nhận thức về không gian và thời gian.
Chẩn Đoán
Chẩn đoán sa sút trí tuệ thường bao gồm một loạt các bước để xác định nguyên nhân cụ thể và loại trừ các yếu tố có thể điều trị được. Điều này thường bao gồm việc thu thập tiền sử bệnh án, thực hiện các xét nghiệm thần kinh và hình ảnh, và đánh giá tâm lý.
Phương Pháp Điều Trị
Hiện nay chưa có cách điều trị hoàn toàn hiệu quả cho sa sút trí tuệ, nhưng có nhiều phương pháp để quản lý triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Các biện pháp điều trị có thể bao gồm:
- Sử dụng thuốc: Một số loại thuốc có thể giúp cải thiện chức năng nhận thức và quản lý triệu chứng.
- Liệu pháp nhận thức và hành vi: Giúp người bệnh thích nghi với các thay đổi và cải thiện chức năng hàng ngày.
- Hỗ trợ và chăm sóc cá nhân: Bao gồm việc tạo ra một môi trường sống an toàn và hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng.
Phòng Ngừa
Mặc dù không thể phòng ngừa hoàn toàn sa sút trí tuệ, một số nghiên cứu cho thấy rằng lối sống lành mạnh có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh. Điều này bao gồm việc duy trì hoạt động thể chất thường xuyên, thực hiện chế độ ăn uống cân đối, tham gia các hoạt động trí tuệ và xã hội, và kiểm soát các bệnh mãn tính như tiểu đường và huyết áp cao.
Kết Luận
Sa sút trí tuệ là một thách thức lớn đối với người bệnh, gia đình và hệ thống chăm sóc sức khỏe. Hiểu biết về các triệu chứng, phương pháp điều trị và chiến lược phòng ngừa có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho những người bị ảnh hưởng bởi tình trạng này và hỗ trợ cho những người chăm sóc họ.
Giá trị của trắc nghiệm đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (mmse) trong sàng lọc sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại cộng đồng Nghiên cứu nhằm đánh giá giá trị của trắc nghiệm đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (MMSE) bản Tiếng Việt trong sàng lọc sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại cộng đồng. Nghiên cứu cắt ngang trên 111 người cao tuổi được chọn ngẫu nhiên tại 3 xã thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn bằng trắc nghiệm MMSE và sau đó được đánh giá lại bằng bộ câu hỏi thần kinh tâm lý đầy đủ theo tiêu chuẩn chẩn đoán DSM - 5. Kết quả cho thấy diện tích dưới đường cong ROC của trắc nghiệm MMSE là 0,89 (95% CI: 0,78 - 1). Điểm cắt tối ưu để chẩn đoán sa sút trí tuệ dựa vào trắc nghiệm MMSE là 19/20 với độ nhạy 0,75 và độ đặc hiệu 0,93. Tại điểm cắt 23/24, trắc nghiệm MMSE có độ nhạy, và độ đặc hiệu lần lượt là 0,88 và 0,72, với 32,4% người cao tuổi có khả năng mắc sa sút trí tuệ. Tỷ lệ hiện mắc sa sút trí tuệ theo tiêu chuẩn DSM - 5 là 7,2%. MMSE có giá trị cao trong sàng lọc sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại cộng đồng ở Việt Nam với ngưỡng điểm 23/24.
#sa sút trí tuệ (SSTT) #trắc nghiệm đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (MMSE) #diện tích dưới đường cong ROC #sàng lọc #người cao tuổi #cộng đồng
NHU CẦU THÔNG TIN VÀ CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH SA SÚT TRÍ TUỆ TẠI HUYỆN THẠCH THẤT – THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NĂM 2020-2021 Mục tiêu: Mô tả nhu cầu thông tin và chăm sóc căng thẳng tâm lý của người chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ tại cộng đồng và một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 90 cặp người bệnh và người chăm sóc chính của họ sinh sống tại huyện Thạch Thất, Hà Nội năm 2020 – 2021. Nhu cầu thông tin và căng thẳng tâm lý của người chăm sóc được lượng giá bằng thang điểm Camberwell Assessment of Need for the Elderly (CANE). Kết quả: 55,6% trường hợp người chăm sóc chưa được đáp ứng nhu cầu về thông tin và căng thẳng tâm lý, trong đó trung bình 53,1% không nhận được trợ giúp từ nguồn không chính thức và 93,7% không nhận được trợ giúp từ nguồn chính thức. Nhu cầu thông tin và căng thẳng tâm lý của người chăm sóc tăng lên khi giai đoạn sa sút trí tuệ của người bệnh theo CDR tăng lên (p<0,05). Nhu cầu căng thẳng tâm lý có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến thu nhập bình quân của gia đình (p<0,05). Kết luận: Đa số người chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ chưa được đáp ứng nhu cầu thông tin và căng thẳng tâm lý kể cả từ nguồn trợ giúp không chính thức và chính thức, và có liên quan chặt chẽ đến giai đoạn bệnh và thu nhập của gia đình.
#sa sút trí tuệ #người chăm sóc #nhu cầu thông tin #nhu cầu căng thẳng tâm lý
KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ ĐỐI VỚI SA SÚT TRÍ TUỆ TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG NĂM 2019 Sa sút trí tuệ là một bệnh rất phổ biến ở người cao tuổi. Khoảng 6-10% người trên 60 tuổi mắc bệnh sa sút trí tuệ. Tuy nhiên kiến thức và thái độ của nhân viên y tế với Sa sút trí tuệ còn hạn chế.Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu đánh giá kiến thức và thái độ của nhân viên y tế đối với bệnh sa sút trí tuệ (SSTT) tại bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2019. Đây là nghiên cứu cắt ngang được tiến hành từ tháng 04 đến tháng 12 năm 2019 tại bệnh viện Lão khoa Trung ương. Bác sĩ và điều dưỡng làm việc toàn thời gian tại bệnh viện Lão khoa Trung ương và đồng ý tham gia nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng 02 bộ câu hỏi để phỏng vấn kiến thức và thái độ của nhân viên y tế bao gồm Alzheimer's Disease Knowledge Scale (ADKS) và the Dementia Attitudes Scale (DAS). Các biến khác sử dụng bao gồm tuổi, giới, nơi sống, trình độ học vấn, kinh nghiệm làm việc với bệnh nhân SSTT và tham dự bất kỳ khóa học nào về SSTT. Tổng số 142 nhân viên y tế tham gia có 130 điều dưỡng (91.5%) và 12 bác sĩ (9.5%). Tuổi dao động từ 20-39 tuổi.Tỉ lệ kiến thức tốt và rất tốt là 97.2% còn tỉ lệ thái độ rất tốt là 29.9%.Kết quả cho thấy cải thiện thái độ của nhân viên y tế với SSTT rất quan trọng và cần có nhiều chương trình đào tạo cũng như nghiên cứu để cải thiện kiến thức và thái độ của nhân viên đối với SSTT.
#sa sút trí tuệ #kiến thức và thái độ #nhân viên y tế
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA NGƯỜI BỆNH SA SÚT TRÍ TUỆ TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG NĂM 2022 Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng có liên quan đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở người bệnh sa sút trí tuệ (NBSSTT). Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phân tích mối tương quan giữa mức độ suy dinh dưỡng và mức độ sa sút trí tuệ của NBSSTT tại bệnh viện Lão khoa Trung Ương năm 2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 63 NBSSTT đang điều trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung Ương từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2022. Bộ câu hỏi nghiên cứu bao gồm Thang đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (Mini Mental State Examination-MMSE), Thang đánh giá dinh dưỡng giản lược (Mini Nutrition Assessment-MNA), và các chỉ tiêu nhân trắc học. Kết quả: 47,7% đối tượng mắc sa sút trí tuệ mức độ trung bình và nặng. Cân nặng và tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể trung bình là 55,5±8,9 (kg) và 32,4±7,3 (%). 74,6% NBSSTT có suy dinh dưỡng/nguy cơ suy dinh dưỡng. Điểm MMSE và điểm MNA có mối tương quan thuận với hệ số tương quan r.=0,3 (p<0,05). Kết luận: Tình trạng suy dinh dưỡng/nguy cơ suy dinh dưỡng là phổ biến ở NBSSTT. Sàng lọc, đánh giá tình trạng dinh dưỡng thường xuyên và dự phòng nguy cơ suy dinh dưỡng là cần thiết cho NBSSTT để hạn chế các hậu quả nghiêm trọng và tử vong.
#suy dinh dưỡng #sa sút trí tuệ #MMSE #MNA
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN SA SÚT TRÍ TUỆ ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sa sút trí tuệ (SSTT) điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 106 bệnh nhân SSTT điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương trong thời gian từ tháng 3 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021. Số liệu được thu thập bằng hỏi bệnh, các bộ câu hỏi đánh giá, ghi nhận theo hồ sơ bệnh án của bệnh nhân để thu thập thông tin về tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân. Tình trạng dinh dưỡng được đánh giá dựa vào 2 công cụ là MNA (Mini Nutrition Assessment) và GLIM (Global Leadership Initiative Malnutrition). Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là79,5 ± 8,4 (61-97), tỷ lệ nữ 52,8% và nam là 47,2%. Bệnh nhân vào viện vì nhiễm trùng là lý do phổ biến trong đó viêm phổi chiếm tỉ lệ cao nhất 45,3%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng(SDD) theo MNA là 66,0%, theo GLIM là 62,0%. Tỉ lệ SDD theo phương pháp đánh giá MNA ở nhóm bệnh nhân SSTT giai đoạn nặng chiếm 73,0% với p< 0.001, theo tiêu chuẩn GLIM là 69,7% với p<0.05. Kết luận: Tỷ lệ SDD cao ở bệnh nhân SSTT, SSTT giai đoạn càng nặng thì tỉ lệ càng cao. Do vậy, đánh giá dinh dưỡng và có kế hoạch can thiệp dinh dưỡng sớm, cần được chú ý đối với bệnh nhân SSTT.
#Suy dinh dưỡng #sa sút trí tuệ #người cao tuổi
NGHIÊN CỨU GÁNH NẶNG CHĂM SÓC BỆNH NHÂN PARKINSON CÓ SA SÚT TRÍ TUỆ BẰNG CHỈ SỐ CĂNG THẲNG CHO NGƯỜI CHĂM SÓC CÓ SỬA ĐỔI Mục tiêu: Đánh giá gánh nặng chăm sóc bệnh nhân Parkinson có sa sút trí tuệ bằng “Chỉ số căng thẳng cho người chăm sóc có sửa đổi” (MCSI – Modified Caregiver Strain Index). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang so sánh trên người chăm sóc chính của 100 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh Parkinson theo tiêu chuẩn của Ngân hàng não hội Parkinson Vương quốc Anh (UKPDSBB/United Kingdom Parkinson’s Disease Society Brain Bank), nhóm bệnh nhân Parkinson có sa sút trí tuệ (SSTT) chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ (DSM –V) tại Bệnh viện Lão khoa Trung Ương từ tháng 06 năm 2020 đến tháng 05 năm 2021. Kết quả: 50 người chăm sóc chính của bệnh nhân Parkinson không bị SSTT và 50 người chăm sóc chính bệnh nhân Parkinson có SSTT. Điểm MCSI của người chăm sóc trung bình là 9.73 ± 7.558. Điểm MCSI trung bình có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu, cao hơn ở nhóm người chăm sóc bệnh nhân có SSTT (p<0.05). Trong nhóm người chăm sóc chính của bệnh nhân có SSTT, mức độ rất căng thẳng là 32%, căng thẳng trung bình 48%, không căng thẳng 20%. Nhóm không có SSTT có điểm PDQ-carer trung bìnhcủa người chăm sóc chính là 30.42 ± 26.437, của nhóm có SSTT cao hơn là 74.44 ± 33.72, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với giá trị p < 0.05. Kết luận: Gánh nặng chăm sóc cho bệnh nhân Parkinson tăng lên khi có sa sút trí tuệ đi kèm.
#Parkinson #sa sút trí tuệ #gánh nặng chăm sóc
MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ VÀ HÌNH ẢNH 18F-FDG PET/CT NÃO Ở CÁC BỆNH NHÂN MẮC BỆNH ALZHEIMER TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG TÓM TẮTMục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ não và hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở các bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương.Phương pháp: Trong thời gian từ năm 2014 đến 2015, lần đầu tiên ở Việt Nam, phương pháp chụp cắt lớp vi tính não phát điện tử dương (PET/CT) sử dụng 18F-FDG đã được áp dụng trong nghiên cứu bệnh Alzheimer với 32 trường hợp bao gồm 16 bệnh nhân Alzheimer và 16 bệnh nhân nhóm chứng cùng độ tuổi được xác định không bị sa sút trí tuệ, các thăm khám 18F-FDG PET/CT não đã được thực hiện tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai. Thăm khám cộng hưởng từ sọ não cũng được thực hiện cho tất cả các bệnh nhân Alzheimer. Số liệu 18F-FDG PET/CT não ở nhóm Alzheimer được so sánh đối chiếu với nhóm chứng.Kết quả: Tuổi trung bình mắc bệnh ở bệnh nhân Alzheimer là 65.1± 8.2. Đa số bệnh nhân Alzheimer đến khám ở giai đoạn vừa hoặc nặng (90%). Trên hình ảnh cộng hưởng từ, 93% các bệnh nhân có teo vỏ não toàn thể từ mức độ nhẹ đến nặng, 75% trường hợp có teo hồi thái dương trong tính chất bệnh lý, teo não vùng đỉnh cũng gặp ở tỷ lệ cao trong nghiên cứu (81,3%). Chỉ số Evan lớn hơn bình thường trong 68.8% các trường hợp. Không thấy hiện tượng giảm chuyển hóa đường Glucose khu trú ở não trên hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở tất cả các bệnh nhân nhóm chứng. Ngược lại, ở nhóm bệnh nhân Alzheimer, 93.8 các trường hợp có giảm chuyển hóa ở vùng thái dương đỉnh trái và 81.3% ở bên phải, trong khi 100% các bệnh nhân đều có giảm chuyển hóa đường Glucose ở hồi khuy sau hai bên và hải mã trái, chuyển hóa vùng chẩm cơ bản được bảo tồn trong hầu hết các trường hợp và hơn 50% các trường hợp bệnh nhân Alzheimer có giảm chuyển hóa lan ra vùng trán.Kết luận: Hầu hết các bệnh nhân Alzheimer đều có các hình ảnh bất thường về tổn thương thoái hóa não trên hình ảnh cộng hưởng từ thể hiện bằng teo não toàn thể với nhiều mức độ. Những vùng teo não đặc trưng hay gặp trong Alzheimer là teo hồi thái dương trong và teo não vùng đỉnh. Hình ảnh giảm chuyển hóa đường Glucose não hay gặp trên 18F-FDG PET/CT trong bệnh Alzheimer có tính đặc trưng với giảm chuyển hóa có tính chất phân vùng giải phẫu ở vùng thái dương đỉnh và hồi khuy sau, ưu thế bên trái. Cộng hưởng từ não và 18F-FDG PET/CT não được biết đến là những kỹ thuật hình ảnh y học có độ nhậy và độ an toàn cao, có giá trị khách quan và ngày càng được ứng dụng nhiều trong lâm sàng và nghiên cứu về bệnh Alzheimer nói riêng và hội chứng sa sút trí tuệ nói chung, góp phần cải thiện đáng kể khả năng chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt bệnh Alzheimer và các thể sa sút trí tuệ khác.
#Bệnh Alzheimer (Alzheimer’s Disease #AD) #cộng hưởng từ #18F-FDG PET/CT não #sa sút trí tuệ
VAI TRÒ CỦA APOE ε4 VÀ BIOMARKER TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH ALZHEIMER THEO CƠ CHẾ THAY ĐỔI BỆNH Sa sút trí tuệ là một hội chứng suy giảm chức năng nhận thức kèm theo những thay đổi về hành vi và mất chức năng xã hội. Trong các nguyên nhân gây sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer là nguyên nhân thường gặp nhất, chiếm 60-70%.
Bệnh Alzheimer là bệnh lý thoái hóa thần kinh tiến triển với cơ chế bệnh học đặc trưng bởi sự xuất hiện của các mảng amyloid và đám rối tau. Sự tiến triển của bệnh Alzheimer diễn ra qua ba giai đoạn: lắng đọng mảng amyloid ngoại bào, phosphoryl hóa quá mức protein tau, lắng đọng tau phosphoryl hóa (p-tau) trong neuron. Trong 20 năm qua, đã có nhiều xét nghiệm hình ảnh học và dấu ấn sinh học (biomarker) được nghiên cứu phát triển giúp chẩn đoán sớm và điều trị bệnh. Xét nghiệm giúp đưa ra bằng chứng bệnh học của bệnh Alzheimer kể từ khi chưa có biểu hiện lâm sàng, từ đó giúp chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm.
Hiện tại, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp nhận sử dụng 7 loại thuốc trong điều trị bệnh Alzheimer: 5 thuốc điều trị triệu chứng và 2 thuốc điều trị theo cơ chế bệnh sinh. Khi các phương pháp điều trị bệnh Alzheimer theo cơ chế thay đổi bệnh ngày càng được nghiên cứu phát triển, xét nghiệm biomarker ngày càng trở nên quan trọng trong việc xác định các bệnh nhân thuộc đối tượng điều trị. Đặc biệt, sự phát triển của xét nghiệm các biomarker trong huyết thanh (amyloid-β Aβ42/Aβ40, apolipoprotein E) cho phép xét nghiệm nhanh và có thể thực hiện dễ dàng trên bệnh nhân. Trong tương lai, ngày càng có nhiều xét nghiệm biomarker sẽ giúp chẩn đoán sớm, từ đó lựa chọn đối tượng điều trị phù hợp cũng như theo dõi, tiên lượng khi điều trị thuốc theo cơ chế thay đổi bệnh.
#biomarker #sa sút trí tuệ #Alzheimer #gen APOE
21. Ý định tìm kiếm dịch vụ chẩn đoán sa sút trí tuệ của người dân Việt Nam năm 2020 Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại 8 tỉnh/thành trong cả nước nhằm tìm hiểu ý định tìm kiếm dịch vụ chẩn đoán sa sút trí tuệ của người dân. Kết quả cho thấy: Hầu hết người dân có ý định tìm kiếm dịch vụ chẩn đoán sa sút trí tuệ khi bản thân/người thân có biểu hiện lẫn lộn hoặc mất trí nhớ. Người dân có ý định lựa chọn bác sĩ chuyên khoa và tuyến trung ương/tuyến tỉnh cao hơn so với nhóm còn lại. Việc lựa chọn chuyên môn bác sỹ và tuyến cơ sở y tế có sự khác biệt theo một một số đặc điểm liên quan đến khả năng tiếp cận và khả năng chi trả (địa lý vùng miền, nơi sống, độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp, dân tộc, thu nhập), và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các chương trình can thiệp góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện người mắc sa sút trí tuệ cần quan tâm đến ý định của cộng đồng, khả năng lựa chọn tuyến cơ sở y tế, chuyên môn của bác sĩ để có giải pháp phù hợp với từng nhóm dân cư.
#Sa sút trí tuệ #ý định #tìm kiếm dịch vụ chẩn đoán
ỨNG DỤNG CHƯƠNG TRÌNH CAN THIỆP NHẬN THỨC SPECTOR TRÊN NGƯỜI BỆNH SA SÚT TRÍ TUỆ MẠCH MÁU Mục tiêu: Mô tả quá trình áp dụng và kết quả bước đầu chương trình can thiệp nhận thức Spector trên người bệnh sa sút trí tuệ mạch máu mức độ nhẹ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng tiến hành đánh giá kết quả bước đầu của chương trình can thiệp nhận thức Spector trên đối tượng người bệnh sa sút trí tuệ mạch máu mức độ nhẹ tại Bệnh viện Lão khoa Trung Ương tháng 08 năm 2022. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân hoàn thành chương trình can thiệp Spector là 100%, không ghi nhận bất kì trường hợp bỏ cuộc nào trong quá trình can thiệp. Chương trình được điều chỉnh và chuẩn hóa phù hợp để áp dụng trên người Việt Nam. Sự cải thiện về chức năng nhận thức ở bệnh nhân nhóm can thiệp và đối chứng trước và sau can thiệp, đánh giá thông qua thang điểm ADAS Cog lần lượt là -0,6421±1,0506 và 0,1792±1,7937, không có ý nghĩa thống kê với p= 0,155. Chất lượng cuộc sống bệnh nhân trước và sau can thiệp đánh giá dựa trên thang điểm EQ5D5L là 0,0619±0,0849 với nhóm can thiệp; 0,0611±0,0879 với nhóm chứng và thang điểm QoLAD là 0,1429±1,3506 ở nhóm can thiệp; 0,0769±1,1875 ở nhóm chứng Những sự khác biệt này đều không có ý nghĩa với p=0,978 và p=0,86. Kết luận: Chương trình can thiệp nhận thức Spector hoàn toàn khả thi để áp dụng trên đối tượng người bệnh sa sút trí tuệ tại Việt Nam. Bước đầu can thiệp nhận thức Spector trên đối tượng sa sút trí tuệ mạch máu mức độ nhẹ chưa mang lại sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về chức năng nhận thức và chất lượng cuộc sống ở thời điểm 2 tuần sau tiến hành can thiệp.
#Can thiệp nhận thức #chức năng nhận thức #sa sút trí tuệ mạch máu