Methamphetamine là gì? Các công bố khoa học về Methamphetamine
Methamphetamine, hay "meth," là chất kích thích thuộc nhóm amphetamine, được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1893. Ban đầu dùng trong y học, sau trở thành chất gây nghiện phổ biến và bị lạm dụng rộng rãi, dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe và xã hội nghiêm trọng. Methamphetamine làm tăng dopamine, norepinephrine và serotonin, gây hưng phấn nhưng tích tụ lâu dài có thể dẫn đến tổn thương thần kinh. Dù có ứng dụng trong điều trị ADHD và béo phì, nguy cơ lạm dụng cao khiến methamphetamine bị kiểm soát nghiêm ngặt ở nhiều nơi.
Methamphetamine: Tổng Quan và Tác Động
Methamphetamine, thường được biết đến dưới tên gọi "meth", là một chất kích thích mạng mạch thuộc nhóm amphetamine. Được tổng hợp lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 20, methamphetamine không chỉ được sử dụng trong y học mà còn bị lạm dụng rộng rãi, gây ra nhiều vấn đề xã hội và sức khỏe nghiêm trọng.
Lịch Sử Phát Triển
Methamphetamine được tổng hợp lần đầu vào năm 1893 bởi nhà hóa học người Nhật, Nagai Nagayoshi. Đến năm 1919, một phiên bản dễ bay hơi hơn được phát minh bởi Akira Ogata. Trong Thế chiến II, methamphetamine được sử dụng rộng rãi để giữ cho binh sĩ tỉnh táo và nâng cao hiệu suất chiến đấu. Sau chiến tranh, methamphetamine trở thành một phần của xã hội dân sự ở nhiều nước, với nhiều biến thể được sản xuất và sử dụng bất hợp pháp.
Cơ Chế Tác Động
Methamphetamine hoạt động bằng cách tăng cường mức độ của các chất dẫn truyền thần kinh như dopamine, norepinephrine, và serotonin trong não. Điều này dẫn đến cảm giác hưng phấn, gia tăng năng lượng và sự tập trung. Tuy nhiên, việc sử dụng lâu dài có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho các tế bào thần kinh và dẫn đến nhiều vấn đề tâm thần và thể chất.
Sử Dụng Trong Y Học
Mặc dù phổ biến hơn với việc lạm dụng, methamphetamine vẫn có một số ứng dụng trong y học. Nó được kê đơn dưới dạng Desoxyn để điều trị chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và béo phì. Tuy nhiên, những ứng dụng này rất hiếm do nguy cơ lạm dụng và các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Tác Động Xã Hội và Sức Khỏe
Việc lạm dụng methamphetamine dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng cả về sức khỏe và xã hội. Những người sử dụng thường xuyên gặp phải các vấn đề như mất ngủ, rối loạn tâm thần, hành vi hung hăng, và suy giảm nhận thức. Methamphetamine cũng gây ra sự bùng nổ trong các tệ nạn xã hội, từ việc tăng cao tỷ lệ tội phạm cho đến các vấn đề nghiện ngập ở nhiều cộng đồng.
Pháp Lý và Kiểm Soát
Ở hầu hết các quốc gia, methamphetamine là một chất bị kiểm soát nghiêm ngặt. Tại Hoa Kỳ, nó được xếp vào danh sách các chất ma túy bảng II, nghĩa là có tiềm năng lạm dụng cao nhưng vẫn có một số giá trị sử dụng trong y học. Chính quyền các nước không ngừng nỗ lực để kiểm soát việc sản xuất và phân phối bất hợp pháp chất này qua các chính sách và biện pháp thực thi pháp luật.
Kết Luận
Methamphetamine, với những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và xã hội, là một vấn đề mà nhiều quốc gia phải đối mặt. Dù có một số ứng dụng y học hạn chế, nhưng nguy cơ lạm dụng và các tác động tiêu cực khác khiến việc kiểm soát loại chất này trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Sự kết hợp giữa giáo dục, pháp luật và chăm sóc y tế là cần thiết để giải quyết thách thức này hiệu quả.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "methamphetamine":
Năm amin đồng vận giao cảm tác động trung ương, bao gồm d‐amphetamine, d‐methamphetamine, ephedrine, phenmetrazine, và methylphenidate, đã được nghiên cứu trên người. Tất cả các chất này đều làm tăng huyết áp và nhịp hô hấp, gây ra các thay đổi chủ quan tương tự và tăng cường bài tiết epinephrine. Về các thông số này, có sự tương đồng cao giữa ước lượng sức mạnh tương đối của chúng. Sự tương đồng giữa các ước lượng sức mạnh cho các thông số khác nhau gợi ý, nhưng không chứng minh, rằng năm chất này chia sẻ một cơ chế tác động trung ương chung. Hơn nữa, nếu các cơ chế tác động ngoại vi như đã được làm rõ qua các nghiên cứu trên động vật đúng với người, nghiên cứu này gợi ý rằng ít có khả năng rằng các tác động trung ương của chúng ở người là hậu quả của sự giải phóng norepinephrine trong não.
Chúng tôi lần đầu tiên trực quan hóa cấu trúc thiếu hụt trong não người liên quan đến việc lạm dụng methamphetamine (MA) mãn tính. Các nghiên cứu trên những người sử dụng MA mãn tính đã cho thấy sự thiếu hụt trong hệ thống dopaminergic và serotonergic cũng như bất thường về chuyển hóa não. Sử dụng chụp cộng hưởng từ (MRI) và các kỹ thuật lập bản đồ não tính toán, chúng tôi xác định mô hình thay đổi cấu trúc não liên quan đến việc lạm dụng MA mãn tính và liên hệ những thiếu hụt này với suy giảm nhận thức. Chúng tôi đã sử dụng MRI độ phân giải cao và phân tích hình ảnh tính toán dựa trên bề mặt để lập bản đồ các bất thường khu vực ở vỏ não, hippocampus, chất trắng, và các não thất của 22 người đã sử dụng MA và 21 người khỏe mạnh cùng độ tuổi để đối chứng. Các bản đồ vỏ não cho thấy sự thiếu hụt chất xám nghiêm trọng ở vỏ não cingulate, limbic, và paralimbic của những người lạm dụng MA (trung bình là 11.3% thấp hơn so với nhóm đối chứng;
Methamphetamine và methcathinone là các loại thuốc kích thích tâm lý có khả năng sử dụng lạm dụng cao. Ở động vật, methamphetamine và các loại thuốc liên quan được biết là có khả năng gây tổn hại cho các tế bào thần kinh dopamine (DA) trong não, và gần đây tổn hại này đã được chứng minh có thể phát hiện ở linh trưởng không phải người sống thông qua phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) với [11C]WIN-35,428, một dạng chất gắn kết với chất vận chuyển DA (DAT). Nghiên cứu hiện tại nhằm xác định liệu những người từng sử dụng methamphetamine hoặc methcathinone có bằng chứng cho thấy sự giảm lâu dài mật độ DAT trong não hay không. Các nghiên cứu PET đã được tiến hành trên 10 đối tượng kiểm soát, sáu người từng sử dụng methamphetamine và bốn người từng sử dụng methcathinone, cùng với ba bệnh nhân bệnh Parkinson (PD). Trung bình, các đối tượng đã ngừng sử dụng chất kích thích khoảng 3 năm. Trước khi thực hiện các nghiên cứu PET, tất cả đối tượng phải làm các xét nghiệm hóa học trong nước tiểu và máu để loại trừ việc sử dụng ma túy gần đây. So sánh với nhóm kiểm soát, những người từng sử dụng methamphetamine và methcathinone có sự giảm đáng kể mật độ DAT ở nhân đuôi (-23% và -24% tương ứng) và nhân bèo (-25% và -16% tương ứng). Sự giảm mạnh hơn mật độ DAT được ghi nhận ở bệnh nhân PD (-47% và -68% ở nhân đuôi và nhân bèo tương ứng). Không có dấu hiệu lâm sàng của bệnh Parkinson được tìm thấy ở những người sử dụng methamphetamine hoặc methcathinone. Giảm mật độ DAT lâu dài ở những người dùng methamphetamine và methcathinone chỉ ra sự mất mát DAT hoặc mất mát đầu cuối của DA và làm tăng khả năng rằng khi những người này già đi, họ có nguy cơ phát triển bệnh Parkinson hoặc các tình trạng tâm thần kinh, trong đó các tế bào thần kinh DA trong não có liên quan.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10