Scholar Hub/Chủ đề/#hoá chất cảm ứng/
Hóa chất cảm ứng, hay inducers, là các hóa chất có khả năng kích hoạt hoặc tăng cường hoạt động enzyme và các hoạt động sinh hóa trong sinh vật, quan trọng trong y học, công nghiệp và nghiên cứu khoa học. Chúng hoạt động qua tương tác với protein, enzyme, hay yếu tố di truyền, điều chỉnh các con đường sinh hóa để biểu hiện gene và sản xuất enzyme đặc hiệu. Hóa chất này có ứng dụng trong y học và công nghiệp, mở ra cơ hội phát triển, nhưng cũng đòi hỏi hiểu biết sâu về cơ chế để giảm thiểu tác động phụ. Với những tiến bộ khoa học, nghiên cứu về hóa chất cảm ứng đang mở rộng hướng đi tiềm năng.
Hóa Chất Cảm Ứng: Khái Niệm và Ứng Dụng
Hóa chất cảm ứng, thường được biết đến với tên gọi inducers, là các hóa chất có khả năng gây ra hoặc tăng cường quá trình hoạt động của enzyme hoặc các hoạt động sinh hóa khác trong cơ thể sinh vật. Chúng đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực như y học, công nghiệp và nghiên cứu khoa học.
Cơ Chế Hoạt Động Của Hóa Chất Cảm Ứng
Cơ chế hoạt động của hóa chất cảm ứng thường liên quan đến việc tương tác với các protein, enzyme hoặc các yếu tố di truyền trong tế bào. Chúng có thể kích hoạt hoặc điều chỉnh các con đường sinh hóa, dẫn đến sự biểu hiện của các gene cụ thể hoặc sự tổng hợp của các enzyme đặc hiệu.
Một ví dụ điển hình là việc sử dụng hóa chất cảm ứng trong công nghệ sinh học để điều khiển sự phát triển của vi sinh vật hoặc tế bào nuôi cấy, tối ưu hóa quá trình sản xuất các sản phẩm sinh học như kháng sinh, hormone, hoặc protein tái tổ hợp.
Ứng Dụng Thực Tiễn Của Hóa Chất Cảm Ứng
Trong y học, hóa chất cảm ứng có thể được sử dụng để điều chỉnh hoạt động của một số enzyme quan trọng trong điều trị bệnh. Ví dụ, một số loại thuốc có thể hoạt động như hóa chất cảm ứng để tăng cường hoạt động của các enzyme trong gan, giúp tăng tốc độ chuyển hóa thuốc hoặc chất độc.
Trong công nghiệp, hóa chất cảm ứng được áp dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất. Chúng có thể kích thích vi sinh vật hoặc thực vật tạo ra nhiều sản phẩm hơn dưới điều kiện khống chế. Điều này đặc biệt hữu ích trong sản xuất sinh khối, nhiên liệu sinh học và các chất biến đổi sinh học.
Những Thách Thức và Cơ Hội
Mặc dù hóa chất cảm ứng có nhiều ứng dụng, việc sử dụng chúng cũng đem lại một số thách thức. Cần phải hiểu rõ cơ chế tác động của chúng ở mức độ phân tử và tế bào để tránh các tác động phụ không mong muốn. Ngoài ra, sự tích tụ của hóa chất cảm ứng trong môi trường có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sinh thái.
Tuy nhiên, với sự tiến bộ của khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực sinh học phân tử và hóa sinh, các nghiên cứu về hóa chất cảm ứng đang mở ra nhiều cơ hội mới. Việc phát triển các hóa chất cảm ứng mới với độ chọn lọc cao hơn và ít tác dụng phụ hơn là hướng đi tiềm năng cho tương lai.
Kết Luận
Hóa chất cảm ứng là một phần không thể thiếu trong nhiều quy trình sinh học và công nghiệp hiện đại. Sự hiểu biết sâu sắc về chúng không chỉ giúp cải thiện hiệu suất trong sản xuất mà còn đóng góp lớn trong việc điều trị và quản lý các bệnh lý bằng y học. Tiềm năng của hóa chất cảm ứng sẽ tiếp tục được khai thác và phát triển trong tương lai, mở ra nhiều lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng mới.
PHÂN TÍCH SỐNG THÊM VÀ ĐỘC TÍNH PHÁC ĐỒ HÓA CHẤT CẢM ỨNG THEO SAU HÓA XẠ ĐỒNG THỜI TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN III/IV (M0)Mục tiêu: Phân tích kết quả sống thêm bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa được điều trị hóa chất cảm ứng phác đồ TCF, sau đó hóa xạ đồng thời tại bệnh viện K và đánh giá một số độc tính của phác đồ hóa xạ đồng thời. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF sau đó hoá xạ đồng thời phác đồ platinum tuần tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung vị là 13,5 tháng. Tỷ lệ sống thêm bệnh không tiến triển tại thời điểm 1 năm là 62%, tại thời điểm 2 năm là 29%. Độc tính chủ yếu là hạ bạch cầu hạt, thường gặp độ 1-2; hạ bạch cầu hạt độ 3-4 gặp 4 trường hợp. Thiếu máu độ 3-4 gặp 4,2%. Hạ tiểu cầu độ 3 gặp 2,1% trường hợp. Độc tính ngoài hệ tạo huyết chủ yếu liên quan đến xạ trị, đa phần độ 1-2. Viêm miệng độ 3 gặp 6,4%; độ 4 gặp 2,1%. Khô miệng độ 3 gặp 4,2% và độ 4 gặp 2,1%. Kết luận: Hóa chất cảm ứng TCF theo sau hóa xạ đồng thời cải thiện thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trong điều trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa. Độc tính phác đồ hóa xạ kiểm soát được.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #tại chỗ-tại vùng #hóa chất cảm ứng TCF
Vượt ra ngoài hoạt động thể chất: Đánh giá khả năng cảm giác vận động bằng công nghệ đeo được ở bệnh nhân đa xơ cứng - Một nghiên cứu cắt ngang Dịch bởi AI Journal of NeuroEngineering and Rehabilitation -
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Các công nghệ đeo được hiện đang được sử dụng trong lâm sàng để đánh giá tiêu hao năng lượng trong nhiều quần thể khác nhau, chẳng hạn như những người mắc bệnh đa xơ cứng hoặc người cao tuổi yếu. Đến nay, việc đi xa hơn hoạt động thể chất để xác định khả năng cảm giác vận động chứ không phải tiêu hao năng lượng vẫn còn thiếu bằng chứng về tính khả thi.
Phương pháp
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đọc dữ liệu từ các cảm biến (accelerometer và gyroscope) của đồng hồ thông minh trên mẫu 90 người mắc bệnh đa xơ cứng trong suốt một ngày sinh hoạt hàng ngày tại môi trường bệnh viện. Chúng tôi đã thu được một loạt các thông số động học khác nhau, bên cạnh các bài kiểm tra dựa trên phòng thí nghiệm về hiệu suất cảm giác vận động, nhằm kiểm tra sự liên quan của chúng thông qua phân tích thành phần chính, phân cụm và hồi quy.
Kết quả
Các phân tích này đã chỉ ra ba thành phần của hành vi và khả năng cảm giác vận động, đó là các đặc điểm lâm sàng với trọng tâm là dáng đi, hoạt động thể chất liên quan đến đi bộ và hoạt động thể chất liên quan đến tay trên. Hơn nữa, chúng tôi đã có thể phân loại ra bốn cụm với các mẫu hành vi/capacity khác nhau trong những chiều này. Ở bước cuối cùng, các phân tích hồi quy cho thấy rằng ba thông số động học được chọn từ đồng hồ thông minh có thể dự đoán phần nào khả năng cảm giác vận động, ví dụ như sức mạnh cầm nắm và cái gõ tay trên.
#đánh giá khả năng cảm giác vận động #công nghệ đeo được #bệnh đa xơ cứng #động học #sức mạnh cầm nắm
VAI TRÒ CỦA HÌNH ẢNH THƯƠNG HIỆU, CHẤT LƯỢNG CẢM NHẬN VÀ THÁI ĐỘ VỚI THƯƠNG HIỆU TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG TIẾP THỊ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI VÀ SỰ SẴN LÒNG TRẢ GIÁ CAO HƠN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM Tạp chí Khoa học Quản lý và Kinh tế, Trường Đại học Kinh Tế, Đại học Huế - Số 28 - Trang - 2023
Bài viết này nghiên cứu cách thức tác động của hoạt động tiếp thị truyền thông xã hội (SMMAs) đến sự sẵn lòng trả giá cao hơn (WTPPP) của người tiêu dùng, trong đó làm rõ vai trò của hình ảnh thương hiệu, chất lượng cảm nhận và thái độ đối với thương hiệu trong quảng cáo. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập thông qua khảo sát online 540 người dùng phương tiện truyền thông xã hội (SM) ở Việt Nam. Kỹ thuật PLS-SEM được sử dụng để phân tích dữ liệu với sự hỗ trợ của phần mềm Smartpls 3.3. Kết quả nghiên cứu đã làm rõ vai trò của hình ảnh thương hiệu, chất lượng cảm nhận và thái độ với thương hiệu trong mối quan hệ giữa SMMAs và WTPPP của người tiêu dùng. Kết quả đã góp phần làm rõ thêm cơ chế tác động của SMMAs đối với WTPPP của người dùng SM ở Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu cũng khuyến nghị chương trình tiếp thị trên SM của doanh nghiệp phải tăng hình ảnh tích cực của thương hiệu đối với người tiêu dùng, tạo niềm tin về chất lượng sản phẩm/dịch vụ của thương hiệu, đồng thời tạo thái độ tích cực đối với người xem nhằm tăng WTPPP của họ với thương hiệu.
Từ khóa: Hoạt động tiếp thị truyền thông xã hội; Sự sẵn lòng trả giá cao hơn; Hình ảnh thương hiệu; Chất lượng cảm nhận; Thái độ với thương hiệu trong quảng cáo.
#hoạt động tiếp thị truyền thông xã hội; sự sẵn lòng trả giá cao hơn; hình ảnh thương hiệu; chất lượng cảm nhận; thái độ với thương hiệu trong quảng cáo.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU HOÁ CHẤT TRƯỚC PHÁC ĐỒ TCF TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY VÙNG ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN TẠI CHỖ, TẠI VÙNGMục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị và phân tích một số yếu tố liên quan tỷ lệ đáp ứng của phác đồ TCF hoá chất trước trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa tại Bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Trong 47 bệnh nhân nghiên cứu, nam giới chiếm đa số (74,5%), nhóm tuổi < 65 tuổi chiếm 68,1%, toàn trạng ECOG 0 chiếm 38,3%. Giai đoạn IV (M0) thời điểm chẩn đoán là 78,7%. Ung thư hạ họng-thanh quản chiếm đa số (44,7%), tiếp đến là họng miệng (34,0%). Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ của phác đồ đạt 70,2%. Kết luận: Hoá chất cảm ứng phác đồ TCF trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng có tỷ lệ đáp ứng toàn bộ cao.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #giai đoạn tại chỗ #tại vùng #hoá chất cảm ứng #TCF
Thiết kế và tổ chức chuỗi hoạt động dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học “Cảm ứng ở thực vật” (Chương trình giáo dục phổ thông môn Sinh học 2018)Teaching and developing learners' competencies is the basic orientation of the General Education program and Biology program in 2018. A learner's competency is formed and developed through learning activities and evaluated through the effectiveness of learning activities. Therefore, in teaching, the design and organization of teaching activities are fundamental; it determines the level of meeting the goals of the 2018 general education program. However, the design and organization of the sequence of activities in general and in teaching students to learn in particular are still formal, leading to the low quality of teaching in some schools. This article analyzes the nature of teaching activities. It guides the design and organization of a series of learning activities to help teachers understand and apply correctly in the teaching process.
#Designing #organizing #teaching activities #quality #competency #induction
Ứng dụng của Hệ Thống Chiết Xuất Theo Dòng - Lô Để Xác Định Trực Tuyến Các Khoáng Chất Trong Thức Ăn Động Vật Bằng Quang Phát Xạ Plasma Kết Nối Cảm Ứng Dịch bởi AI Food Analytical Methods - Tập 11 - Trang 1243-1249 - 2017
Việc xác định các khoáng chất là rất quan trọng cho công tác kiểm soát chất lượng thực phẩm cho động vật và chuẩn bị mẫu là một bước quan trọng để đạt được kết quả nhanh chóng, chính xác và đáng tin cậy. Phương pháp chiết xuất sử dụng dung dịch acid loãng là một lựa chọn thú vị nhờ vào tính đơn giản, nhẹ nhàng và an toàn của nó. Tuy nhiên, hầu hết các quy trình chiết xuất đều được thực hiện theo chế độ lô, mà thường tốn thời gian hơn, vất vả hơn và dễ mắc lỗi hơn so với những quy trình thực hiện theo chế độ dòng hoặc chế độ dòng-lô. Chúng tôi đã đánh giá một hệ thống chiết xuất theo dòng-lô để xác định trực tuyến các khoáng chất trong thức ăn động vật khô bằng phương pháp quang phát xạ plasma cảm ứng (ICP OES). Hệ thống chiết xuất theo dòng-lô được thiết kế cho phép xác định nhanh chóng, đơn giản và đáng tin cậy các khoáng chất trong thức ăn động vật khô bằng ICP OES. Hơn nữa, hệ thống này chi phí thấp và dễ xây dựng, điều này khiến cho việc ứng dụng của nó trở nên khả thi trong phân tích định kỳ. Điều kiện chiết xuất tối ưu được thực hiện bằng cách sử dụng 50 mg mẫu mô động vật khô, 10 mL HCl 4% V V−1, và 4 phút thời gian chiết xuất. Độ chính xác của quy trình chiết xuất theo dòng-lô đã được chứng minh bằng cách sử dụng các vật liệu tham chiếu đã được chứng nhận của gan bò.
Sự thay đổi về chất lượng và các tham số dinh dưỡng trong quá trình bảo quản lạnh đồ uống từ nước cam và sữa được xử lý bằng các phương pháp gia nhiệt và không gia nhiệt tương đương để tiệt trùng nhẹ Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 6 Số 8 - Trang 2018-2030 - 2013
Các tác động của phương pháp điều trị áp suất cao (HP) (400 MPa ở 42 °C trong 5 phút) và xử lý bằng trường điện từ trường (PEF) (25 kV/cm ở 57 °C trong 280 μs) đến hàm lượng axit ascorbic, tổng carotenoid, tổng hợp chất phenolic và tổng khả năng chống oxy hóa (TEAC và ORAC) của đồ uống từ nước cam - sữa (OJ-M) trong quá trình bảo quản ở 4 °C đã được so sánh với công nghệ bảo quản nhiệt thông thường được sử dụng trong ngành công nghiệp (90 °C trong 15 giây). Trong quá trình bảo quản, hàm lượng axit ascorbic, tổng carotenoid và khả năng chống oxy hóa (TEAC) đều giảm theo thời gian không phân biệt phương pháp điều trị áp dụng. Thay vào đó, hàm lượng phenolic tổng hợp và khả năng chống oxy hóa đo bằng phương pháp ORAC tăng lên vào cuối thời gian bảo quản. Đồ uống không xử lý nhiệt có mức độ nâu không enzym thấp hơn so với đồ uống đã tiệt trùng bằng nhiệt. Không có sự biến động đáng kể nào trong hàm lượng hidroxymethylfurfural (HMF) của đồ uống OJ-M được xử lý bằng HP và PEF, trong khi đó, một sự gia tăng đáng kể đã được ghi nhận sau khi xử lý nhiệt. Trong quá trình bảo quản lạnh, hàm lượng HMF luôn thấp hơn giá trị tối đa được thiết lập. Các phương pháp HP đã làm giảm giá trị L* của đồ uống được điều trị ngay sau khi xử lý và trong quá trình bảo quản lạnh và đã làm tăng sự khác biệt về màu sắc tổng thể của các đồ uống được xử lý bằng HP so với PEF và nước cam - sữa được xử lý nhiệt. Do đó, các phương pháp thay thế như HP và PEF có thể cung cấp cơ hội mới để phát triển nước cam - sữa với thời gian bảo quản tương đương với nước cam đã xử lý nhiệt khi kết hợp với sữa về các đặc tính vi sinh, lý hóa và dinh dưỡng.
#áp suất cao #trường điện từ trường #axit ascorbic #carotenoid #chất phenolic #khả năng chống oxy hóa #đồ uống nước cam-sữa
CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ CHUĐỗ Chu là nhà văn đã ghi dấu ấn của mình trên văn đàn bằng rất nhiều giải thưởng vănhọc có giá trị. Trong các tập truyện ngắn của mình, Đỗ Chu đã nêu lên được sự khắc nghiệt của chiếntranh đối với số phận con người, bóc trần những hiện trạng xấu của xã hội, đồng thời lên án những conngười có những biểu hiện suy thoái trong lối sống và đạo đức. Nhà văn muốn thông qua những trangviết của mình để gióng lên một hồi chuông thức tỉnh bản chất tốt đẹp vốn có của con người.
#Đỗ Chu là nhà văn đã ghi dấu ấn của mình trên văn đàn bằng rất nhiều giải thưởng văn học có giá trị. Trong các tập truyện ngắn của mình #Đỗ Chu đã nêu lên được sự khắc nghiệt của chiến tranh đối với số phận con người #bóc trần những hiện trạng xấu của xã hội #đồng thời lên án những con người có những biểu hiện suy thoái trong lối sống và đạo đức. Nhà văn muốn thông qua những trang viết của mình để gióng lên một hồi chuông thức tỉnh bản chất tốt đẹp vốn có của con người.
Cảm biến mới cho việc xác định các chất oxi hóa và khử thông qua phương pháp tương đối điện thế liên tục Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 270 - Trang 110-113 - 1974
Bài báo mô tả một cảm biến được ứng dụng trong các phương pháp điện thế tương đối liên tục để xác định các chất oxi hóa hoặc khử thông qua một hệ thống redox phụ. Cảm biến này cho phép thực hiện một phương pháp như vậy như một phương pháp tương đối cho dung dịch mẫu và thuốc thử, trong đó việc đo lường sự chênh lệch điện thế redox giữa hai điện cực platinum được thực hiện mà không có màng ngăn và thông qua một bộ khuếch đại độ chênh lệch, trong đó điểm tham chiếu là một điện cực tham chiếu được sắp xếp ở đầu ra. Việc đo không có màng ngăn và việc sử dụng bộ khuếch đại độ chênh lệch đều góp phần tạo ra sự đo lường độ chênh lệch điện thế ít bị ảnh hưởng bởi các rối loạn cơ học và điện.
#điện thế tương đối #cảm biến #chất oxi hóa #chất khử #bộ khuếch đại độ chênh lệch
Nghiên cứu thực nghiệm về chất lượng cảm nhận của nội dung video dải động cao được chỉnh sửa gốc so với nội dung video dải động cao được chuyển đổi bằng phép đồ họa ngược trên truyền hình Dịch bởi AI Multimedia Tools and Applications - Tập 80 - Trang 5559-5576 - 2020
Truyền hình Dải động cao (HDR) hứa hẹn hiển thị độ sáng cao hơn và mức đen sâu hơn, vì vậy mang lại hình ảnh sống động và thực tế hơn. Tuy nhiên, phân phối video gia đình và phát sóng video trước đây được thiết kế cho những gì chúng ta gọi là màn hình dải động tiêu chuẩn (SDR). Để hiển thị nội dung SDR trên màn hình HDR, nó được chuyển đổi một cách rõ ràng hoặc không rõ ràng, trong một quy trình được gọi là đồ họa ngược (iTMO). Mục tiêu của bài báo này là đánh giá chất lượng cảm nhận của nội dung SDR đã chuyển đổi so với nội dung HDR được điều chỉnh gốc. Bằng cách này, bài báo nhằm giúp các nhà sáng tạo/phân phối nội dung đưa ra quyết định thông minh giữa việc tạo ra/phát sóng nội dung HDR hoặc dựa vào chuyển đổi. Để đạt được điều này, một cuộc thí nghiệm tâm lý học đã được thực hiện để kiểm tra cách người xem đánh giá sự khác biệt giữa nội dung HDR được điều chỉnh gốc và một tập hợp các tùy chọn chuyển đổi SDR sang HDR trên một hệ thống truyền hình. Kết quả cho thấy người xem ưa thích nội dung HDR được điều chỉnh gốc, tiếp theo là các thuật toán đồ họa ngược bắt đầu từ video có dải động nén. Khi so sánh các tùy chọn chuyển đổi, người dùng rõ ràng ưa thích việc chuyển đổi từ SDR ‘dải động nén’ hơn là SDR ‘dải động bị cắt’. Người dùng không thích những video bị kéo naively từ SDR tiêu chuẩn. Ngoài ra, một ảnh hưởng đáng kể về loại cảnh được tìm thấy, với sự ưu tiên cho các cảnh sáng với độ tương phản thấp.
#Dải động cao #HDR #nội dung video #chuyển đổi video #chất lượng cảm nhận #thí nghiệm tâm lý học #nội dung HDR chỉnh sửa gốc #đồ họa ngược (iTMO)