Ct ngực là gì? Các công bố khoa học về Ct ngực

Ct ngực là viết tắt của "chụp cắt lớp" hoặc "chụp cắt tomography". Đây là một phương pháp hình ảnh y tế được sử dụng để tạo ra hình ảnh chi tiết của cấu trúc nộ...

Ct ngực là viết tắt của "chụp cắt lớp" hoặc "chụp cắt tomography". Đây là một phương pháp hình ảnh y tế được sử dụng để tạo ra hình ảnh chi tiết của cấu trúc nội tạng trong ngực. CT ngực sử dụng các tia X và máy tính để tạo ra các hình ảnh chụp liên tiếp của ngực, giúp bác sĩ chẩn đoán các vấn đề y tế như bệnh phổi, ung thư, viêm phổi, hoặc chấn thương.
Ct ngực, còn được gọi là CT scan ngực, là một kỹ thuật chụp X-quang tiên tiến giúp tạo ra hình ảnh cắt lớp chi tiết của các cấu trúc trong ngực. Phương pháp này sử dụng một máy chụp X-quang đặc biệt gọi là máy CT (computed tomography) để tạo ra hình ảnh.

Khi thực hiện CT ngực, bệnh nhân nằm trên một bàn chụp và được đặt vào trong máy CT. Máy sẽ quay xung quanh người bệnh và tạo ra nhiều hình ảnh chụp từ nhiều góc độ khác nhau. Sau đó, dữ liệu được thu thập và sử dụng máy tính để xây dựng hình ảnh cắt lớp chi tiết của các cấu trúc trong ngực.

CT ngực cung cấp thông tin chi tiết về các cơ, xương, mạch máu, phổi, tim và các cấu trúc khác trong ngực. Qua đó, bác sĩ có thể phát hiện các vấn đề y tế như viêm phổi, ung thư phổi, cơ nước trong tim, dị tật phổi, bệnh tăng huyết áp phổi, nhân chẹn, viêm thanh quản và các vấn đề khác.

Trong một số trường hợp, để tăng sự chi tiết, bác sĩ có thể yêu cầu sử dụng chất đối quang. Chất này có thể được uống hoặc tiêm vào tĩnh mạch để làm nổi bật các cấu trúc nội tạng trên hình ảnh.

CT ngực là một công cụ chẩn đoán quan trọng trong y tế và thường được sử dụng để đánh giá và theo dõi các bệnh lý trong ngực, đồng thời hỗ trợ trong quá trình lên kế hoạch điều trị và theo dõi tiến trình điều trị.
Khi tiến hành CT ngực, bệnh nhân sẽ thường được yêu cầu cởi áo và nằm nằm xuống trên một bàn chụp. Đôi khi, bệnh nhân cũng có thể được yêu cầu thay đổi tư thế để đảm bảo việc chụp hình ảnh tốt nhất.

Trong quá trình chụp, máy CT sẽ xoay quanh bệnh nhân và chụp nhiều hình ảnh từ nhiều góc độ khác nhau. Các hình ảnh này sau đó sẽ được nhập vào máy tính và xử lý để xây dựng hình ảnh cắt lớp chi tiết của các cấu trúc trong ngực.

Thời gian thực hiện CT ngực thường rất nhanh, thường chỉ mất vài phút. Trong quá trình chụp, bệnh nhân có thể được yêu cầu giữ im lặng và không di chuyển để đảm bảo sự chụp hình chính xác.

CT ngực có thể được sử dụng để chẩn đoán và đánh giá nhiều tình trạng và bệnh lý trong ngực, bao gồm:

1. Ung thư phổi: CT ngực có thể giúp phát hiện và đánh giá khối u trong phổi, xác định vị trí, kích thước và phạm vi lan rộng của nó.

2. Viêm phổi: CT ngực có thể hiển thị các dấu hiệu viêm phổi như dịch trong phổi, vùng sẹo hoặc xơ phổi.

3. Các bệnh lý xương và cơ: CT ngực có thể giúp tìm hiểu về các vấn đề như gãy xương, biến dạng cột sống, hay các khối u trong cơ và xương.

4. Các vấn đề tim mạch: CT ngực có thể phát hiện các vấn đề liên quan đến tim và các mạch máu như xơ cứng mạch và khối u.

5. Các căn bệnh của thùy và tuyến yên: CT ngực có thể giúp chẩn đoán và đánh giá các bệnh lý của thùy và tuyến yên như viêm, uất ức và ung thư.

CT ngực là một công cụ quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi các bệnh lý trong ngực. Nó cho phép bác sĩ xem xét một cách chi tiết các cấu trúc bên trong ngực, từ đó giúp trong việc đưa ra các quyết định điều trị và theo dõi tiến trình điều trị.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ct ngực":

Giải phẫu thành động mạch chủ lên ngược dòng trong quá trình hoặc sau khi đặt stent động mạch chủ ngực Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 120 Số 11_suppl_1 - 2009

Đặt vấn đề— Các báo cáo từ một trung tâm đã xác định rằng giải phẫu thành động mạch chủ lên ngược dòng (rAAD) là một biến chứng có khả năng gây tử vong của phương pháp sửa chữa động mạch chủ nội mạch ngực (TEVAR).

Phương pháp và Kết quả— Giữa năm 1995 và 2008, 28 trung tâm tham gia Đăng ký châu Âu về các biến chứng sửa chữa động mạch chủ nội mạch đã báo cáo tổng số 63 trường hợp rAAD (tỷ lệ mắc, 1.33%; KTC 95%, 0.75 đến 2.40). Tám mươi mốt phần trăm bệnh nhân đã trải qua TEVAR do giải phẫu loại B cấp tính (n=26, 54%) hoặc mãn tính (n=13, 27%). Các stent graft có lò xo không bọc ở đầu gần đã được sử dụng cho hầu hết bệnh nhân (83%). Chỉ có 7 (15%) bệnh nhân gặp rAAD trong quá trình phẫu thuật, trong khi các trường hợp còn lại xảy ra trong suốt thời gian nhập viện ban đầu (n=10, 21%) và trong thời gian theo dõi (n=31, 64%). Các triệu chứng xuất hiện bao gồm đau ngực cấp tính (n=16, 33%), ngất xỉu (n=12, 25%), và tử vong đột ngột (n=9, 19%), trong khi một phần tư bệnh nhân không có triệu chứng (n=12, 25%). Hầu hết bệnh nhân trải qua sửa chữa phẫu thuật khẩn cấp (n=25) hoặc theo kế hoạch (n=5). Kết quả là tử vong ở 20 trong số 48 bệnh nhân (42%). Nguyên nhân của rAAD bao gồm stent graft tự nó (60%), thao tác với dây hướng dẫn/bộ phận bảo vệ (15%), và sự tiến triển của bệnh lý động mạch chủ cơ bản (15%).

Kết luận— Tỷ lệ mắc rAAD là thấp (1.33%) trong phân tích hiện tại với tỷ lệ tử vong cao (42%). Bệnh nhân trải qua TEVAR do giải phẫu loại B có vẻ dễ mắc phải rAAD nhất. Biến chứng này không chỉ xảy ra trong suốt thời gian nhập viện ban đầu mà còn sau khi ra viện lên tới 1050 ngày sau TEVAR. Quan trọng hơn, phần lớn các trường hợp rAAD liên quan đến việc sử dụng stent graft có lò xo không bọc ở đầu gần với bằng chứng trực tiếp về tổn thương do stent graft gây ra trong phẫu thuật hoặc khám nghiệm tử thi ở một nửa số bệnh nhân.

Định lượng lượng máu trào ngược qua van hai lá bằng các đo đạc về diện tích vena contracta trong siêu âm tim qua thành ngực ba chiều trực tiếp Dịch bởi AI
Echocardiography - Tập 21 Số 8 - Trang 737-743 - 2004

Chúng tôi đã đánh giá 44 bệnh nhân liên tiếp được thực hiện siêu âm tim hai chiều (2D) tiêu chuẩn và siêu âm tim ba chiều trực tiếp (3D), cũng như thông tim bên trái với chụp X-quang thất trái. Diện tích vena contracta (VCA) trào ngược qua van hai lá được thu nhận bằng siêu âm 3D thông qua việc cắt tỉa hệ thống và tuần tự tập dữ liệu siêu âm 3D đã thu. Đánh giá tình trạng trào ngược van hai lá (MR) bằng chụp X-quang thất được so sánh với các phép đo VCA bằng siêu âm 3D và với các phép đo 2D về diện tích tia trào ngược van hai lá so với diện tích nhĩ trái (RJA/LAA), RJA riêng lẻ, chiều rộng vena contracta (VCW), và VCA đã tính toán. VCA từ siêu âm 3D có sự tương quan chặt chẽ với phân loại bằng chụp mạch (rs= 0.88) với rất ít sự chồng chéo. VCA <0.2 cm2 tương quan với MR nhẹ, 0.2–0.4 cm2 với MR trung bình, và >0.4 cm2 với MR nặng theo chụp mạch. Phân loại trên siêu âm thất cũng tương quan tốt với các phép đo 2D về RJA/LAA (rs= 0.79) và RJA riêng (rs= 0.76) nhưng có sự chồng chéo nhiều hơn. Đánh giá VCW và VCA được tính toán qua siêu âm 2D có sự đồng thuận thấp nhất với chụp X-quang thất (rs= 0.51 và rs= 0.55, tương ứng). Các phép đo Doppler màu VCA bằng siêu âm 3D trực tiếp có thể được sử dụng để đánh giá định lượng MR và so sánh được với đánh giá bằng chụp mạch.

#Van hai lá #trào ngược van hai lá #siêu âm tim ba chiều #diện tích vena contracta
CT ngực với tái cấu trúc hoàn toàn dựa trên mô hình: so sánh với tái cấu trúc thống kê thích nghi Dịch bởi AI
BMC Medical Imaging - Tập 13 Số 1 - 2013
Tóm tắt Đại cương

Mô hình tái cấu trúc lặp lại dựa trên mô hình (MBIR) mới được phát triển cho phép giảm đáng kể độ nhiễu và các hiện tượng nhiễu hình ảnh, so với tái cấu trúc lặp lại thống kê thích nghi (ASIR) và phương pháp tái chiếu đã lọc (FBP). Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá khả năng phát hiện tổn thương của chụp cắt lớp vi tính ngực liều thấp (CT) với MBIR so với ASIR và FBP.

Phương pháp

CT ngực được thu thập bằng máy CT 64 lát (Discovery CT750HD) với điều kiện liều chuẩn (5.7 ± 2.3 mSv) và liều thấp (1.6 ± 0.8 mSv) ở 55 bệnh nhân (tuổi 72 ± 7 năm) nghi ngờ mắc bệnh phổi trên phim chụp X-quang ngực. Hình ảnh CT liều thấp được tái cấu trúc bằng MBIR, ASIR 50% và FBP, và hình ảnh CT liều chuẩn được tái cấu trúc bằng FBP, sử dụng độ dày lát tái cấu trúc là 0.625 mm. Hai người đánh giá đã đánh giá chất lượng hình ảnh của các cấu trúc phổi và trung thất bất thường theo thang điểm 5 (Điểm 5 = xuất sắc và điểm 1 = không chẩn đoán được). Độ nhiễu hình ảnh mục tiêu cũng được đo như độ lệch chuẩn của cường độ CT trong động mạch chủ xuống.

#CT ngực #tái cấu trúc lặp lại #giảm liều #MBIR #ASIR #FBP
Tính khả thi và hiệu quả của việc mobilization cột sống ngực lên sự cân bằng giao cảm/đối giao cảm ở một quần thể khỏe mạnh - một nghiên cứu pilot ngẫu nhiên đối chứng với đôi mù Dịch bởi AI
Archives of Physiotherapy - Tập 9 Số 1 - 2019
Tóm tắtĐặt vấn đề

Nhà vật lý trị liệu thường sử dụng kỹ thuật mobilization cột sống ngực (TSM) để giảm đau ở bệnh nhân mắc các rối loạn lưng thông qua việc giảm hoạt động của hệ giao cảm. Có một “sự đánh đổi” trong hoạt động giữa hệ giao cảm và hệ đối giao cảm. Một sự cân bằng giữa hệ giao cảm và hệ đối giao cảm (SPB) là cần thiết để đảm bảo sự cân bằng trong cơ thể. Tuy nhiên, sự cân bằng trong cơ thể thường ít được coi là một mục tiêu của điều trị từ góc nhìn của đa số nhà vật lý trị liệu. Bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ về ảnh hưởng của TSM đến SPB vẫn còn thiếu sót.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự manipulations cột sống có thể mang lại tác động tích cực lên SPB. Do đó, có thể giả định rằng TSM là khả thi và có thể ảnh hưởng đến phản ứng SPB. Mục tiêu chính là mô tả sự tuân thủ của người tham gia với can thiệp và quy trình đo lường, xác định các sự kiện bất lợi không mong muốn (UAE) sau TSM, đánh giá phương pháp tốt nhất để đo các tham số SPB (biến thiên nhịp tim (HRV), huyết áp (BP), nhịp tim (HR), tưới máu da và hồng ban) và ước lượng quy trình điều tra. Mục tiêu phụ là đánh giá tác động của TSM lên các tham số SPB trong một mẫu nhỏ người tham gia khỏe mạnh.

Phương pháp

Nghiên cứu pilot chéo này đã điều tra TSM sử dụng mobilization từ sau ra trước (PAM) và mobilization từ trước ra sau (APM) trên các đoạn T6 đến T12 ở mười hai người tham gia khỏe mạnh trong hai ngày liên tiếp. Để đánh giá tính khả thi, các kết quả sau được đánh giá: sự tuân thủ, UAE, thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu. Để đánh giá tác động của TSM lên SPB, HRV, BP, HR, tưới máu da và hồng ban đã được đo.

Kết quả

Sự tuân thủ đạt 100%. Không có UAE nào được báo cáo. PAM cho thấy kích thước hiệu ứng lớn hơn so với APM trong nhiều biến thứ cấp.

Kết luận

Dù đã đạt 100% sự tuân thủ tối đa và không có UAE nào được quan sát, việc ghi dữ liệu trong các nghiên cứu trong tương lai nên được thực hiện trong một khoảng thời gian thứ hai trong khi việc chuyển dữ liệu từ thiết bị sang phần mềm máy tính nên được thực hiện ngay sau khi hoàn thành việc đo lường của từng người tham gia. Kết quả từ nghiên cứu pilot này cho thấy PAM có thể làm giảm HRV HF và tỷ lệ HRV LF/HF, và tăng nhịp tim (HR).

Đăng ký thử nghiệm

ClinicalTrail.gov (NCT02832141).

CẮT THUỲ PHỔI KÈM NẠO VÉT HẠCH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC MỘT LỖ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Ung thư phổi là một trong những ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Kỹ thuật cắt thuỳ phổi kèm theo nạo vét hạch điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (I, II) bằng phẫu thuật nội soi một lỗ đã được các tác giả trên thế giới đồng thuận. Tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức đã triển khai thường quy phẫu thuật này, cần có những tổng kết và nhận xét tính khả thi của kỹ thuật. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu 37 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ từ tháng 01/2016 tới 06/2021, về các thông số trong và sau mổ cùng tỷ lệ biến chứng... Kết quả: Bao gồm 21 nam và 16 nữ. Tuổi trung bình 59,62 ± 8,79 (34 - 76). Thời gian phẫu thuật 150 ± 22,58 phút (90-195). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 5,59 ± 1,46 ngày (3- 9). Số ngày nằm viện trung bình 7,54 ± 1,86 ngày (4-12). Không có tử vong, tai biến và biến chứng nặng trong và sau mổ. Giai đoạn ung thư: 18 trường hợp giai đoạn I, 19 trường hợp giai đoạn II. Kết luận: Cắt thuỳ phổi kèm theo nạo vét hạch trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ là một kỹ thuật an toàn, khả thi và có nhiều ưu điểm.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ #cắt thuỳ phổi
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG NGỰC KÍN CÓ GÃY NHIỀU XƯƠNG SƯỜN TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau bằng phong bế khoang cạnh sống và kết quả điều trị bệnh nhân chấn thương ngực kín gãy nhiều xương sườn. Đối tượng và phương pháp: 73 bệnh nhân chấn thương ngực kín có gãy ít nhất 3 xương sườn một bên từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 12 năm 2020 tại Khoa phẫu thuật lồng ngực, Bệnh viện quân y 103. Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: 73 bệnh nhân 57 nam và 16 nữ, tuổi trung bình là 52,86; gãy từ 3 đến 5 xương chiếm chủ yếu (86,3%). Điểm VAS khi nghỉ và khi ho giảm, Pa02 tăng có ý nghĩa sau  thực hiện giảm đau cạnh sống (P<0,05). Phương pháp phẫu thuật chủ yếu là dẫn lưu khoang màng phổi 85,3%, có 4 trường hợp được điều trị bằng kết xương sườn. Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ngày. Kết luận: Điều trị chấn thương ngực kín gãy nhiều xương sườn có sử dụng giảm đau cạnh sống cho hiệu quả tốt và an toàn.
#Chấn thương ngực kín gãy nhiều xương sườn #giảm đau cạnh sống
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY CỘT SỐNG ĐOẠN NGỰC THẮT LƯNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP BẮT VÍT QUA DA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị gãy cột sống đoạn ngực thắt lưng bằng phương pháp bắt vít qua da tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả toàn bộ bệnh nhân được chẩn đoán xác định là chấn thương cột sống mất vững đoạn ngực-thắt lưng, và được phẫu thuật nẹp vít cột sống qua da tại khoa Ngoại Thần kinh Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ 2019 – 2021. Kết quả: 38 bệnh nhân (28 nam, 10 nữ) tuổi trung bình là 40,4±11,3; nhóm tuổi 31-40 chiếm tỉ lệ cao nhất 36,9% đã được phẫu thuật nẹp vít cột sống qua da. Đánh gia sau phẫu thuật theo thang điểm VAS và sự cải thiện góc gù (góc Cobb) cột sống: Trong đó mức độ đau trung bình tính theo thang điểm VAS thời điếm sau phẫu thuật là 2,29 so với thời điểm trước phẫu thuật là 5,08; điểm góc gù chấn thương trung bình trước phẫu thuật và sau phẫu thuật là 14,8o ± 5,3o độ và 9,0o ± 5,3o độ. Thời gian phẫu thuật trung bình là 69,1±15,7 phút. Biến chứng trong phẫu thuật chúng tôi gặp 1 trường hợp tổn thương thành trước cột sống. Biến chứng sau chúng tôi gặp 1 trường hợp nhiễm trùng nông vết mổ. Kết luận: Phẫu thuật bắt vít qua da là phương pháp an toàn, hiệu quả, giảm thời gian điều trị chấn thương mất vững cột sống ngực lưng.
#Chấn thương cột sống ngực thăt lưng #phẫu thuật bắt vít qua da
GIÁ TRỊ CỦA PHƯƠNG PHÁP CHỤP CỘNG HƯỞNG TỪ BẠCH MẠCH QUA HẠCH BẸN TRONG CHẨN ĐOÁN RÒ ỐNG NGỰC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: So sánh giá trị của phương pháp chụp cộng hưởng từ bạch mạch qua hạch bẹn trong chẩn đoán rò ống ngực so với chụp bạch mạch số hóa xóa nền. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 25 bệnh nhân được chẩn đoán rò dịch dưỡng chấp (18 nữ, 7 nam; 21 bệnh nhân sau chấn thương, 4 bệnh nhân không do chấn thương) được chụp cộng hưởng từ và số hóa xóa nền đường bạch huyết qua hạch bẹn tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 8 năm 2021. Kết quả: Vị trí tổn thương ống ngực thường gặp là đoạn cổ với 12/25 bệnh nhân (48%) và đoạn ngực với 10/25 bệnh nhân (40%). Hình thái tổn thương ống ngực dạng thoát thuốc gặp nhiều nhất 18/25 bệnh nhân (72%). Với hình thái tổn thương nhánh bên, cộng hưởng từ (CHT) so với chụp số hóa xóa nền (DSA) có độ nhạy 60%, độ đặc hiệu 100%, giá trị dự đoán dương tính 100%, giá trị dự đoán âm tính 91%. Về khả năng phát hiện đường rò, CHT so với DSA có độ nhạy 91.7%, độ đặc hiệu 100%, giá trị dự đoán dương tính 100%, giá trị dự đoán âm tính 33.3%. Kết luận: Chụp cộng hưởng từ bạch mạch qua hạch bẹn hai bên là kỹ thuật có nhiều ưu điểm so với các phương pháp chụp hình hệ bạch mạch trước đây, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong phát hiện rò ống ngực.
#Cộng hưởng từ bạch mạch #ống ngực #rò dưỡng chấp
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN LÚN THÂN ĐỐT SỐNG NGỰC, THẮT LƯNG DO LOÃNG XƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân lún thân đốt sống ngực, thắt lưng do loãng xương. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả trên 71 bệnh nhân. Kết quả: 100% bệnh nhân đều có biểu hiện đau lưng tại vùng tổn thương và hạn chế vận động cột sống. Điểm VAS trung bình trước mổ của bệnh nhân là 7,1 ± 1,6 điểm. Bên cạnh đó, tỷ lệ bệnh nhân bị loãng xương và xẹp thân đốt sống vùng bản lề ngực – thắt lưng lần lượt là 56,3% và 59,2%. Tỷ lệ đốt sống có đường nứt gãy trong thân đốt sống là 39,4%. Điểm T-score trung bình của bệnh nhân tham gia nghiên cứu là -3,6 ± 0,8 điểm. Kết luận: Tất cả các bệnh nhân đều có triệu chứng lâm sàng là đau lưng kéo dài ở mức độ đau nhiều trở lên (điểm VAS 5-10), hạn chế vận động ở các mức độ khác nhau và đều phân loại loãng xương nặng. Trên hình ảnh MRI tất cả các bệnh nhân đều có hình ảnh phù tủy xương thân đốt trên phim.
#Lún thân đốt sống #loãng xương #lâm sàng #cận lâm sàng
Tổng số: 126   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10