Giải phẫu thành động mạch chủ lên ngược dòng trong quá trình hoặc sau khi đặt stent động mạch chủ ngực

Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 120 Số 11_suppl_1 - 2009
Holger Eggebrecht1, Matt Thompson1, Hervé Rousseau1, Martin Czerny1, Lars Lönn1, Rajendra H. Mehta1, Raimund Erbel1
1From the Department of Cardiology (H.E., R.E.), West-German Heart Center Essen, University of Duisburg-Essen, Essen, Germany; the Department of Vascular Surgery (M.T.), St George’s Vascular Institute, St George’s Hospital NHS Trust, London, United Kingdom; the Department of Radiology (H.R.), Centre Hospitalier Universitaire, Hopital de Rangueil, Toulouse, France; the Department of Cardiothoracic Surgery (M.C.), University of Vienna Medical School, Vienna, Austria; the Department of Interventional...

Tóm tắt

Đặt vấn đề— Các báo cáo từ một trung tâm đã xác định rằng giải phẫu thành động mạch chủ lên ngược dòng (rAAD) là một biến chứng có khả năng gây tử vong của phương pháp sửa chữa động mạch chủ nội mạch ngực (TEVAR).

Phương pháp và Kết quả— Giữa năm 1995 và 2008, 28 trung tâm tham gia Đăng ký châu Âu về các biến chứng sửa chữa động mạch chủ nội mạch đã báo cáo tổng số 63 trường hợp rAAD (tỷ lệ mắc, 1.33%; KTC 95%, 0.75 đến 2.40). Tám mươi mốt phần trăm bệnh nhân đã trải qua TEVAR do giải phẫu loại B cấp tính (n=26, 54%) hoặc mãn tính (n=13, 27%). Các stent graft có lò xo không bọc ở đầu gần đã được sử dụng cho hầu hết bệnh nhân (83%). Chỉ có 7 (15%) bệnh nhân gặp rAAD trong quá trình phẫu thuật, trong khi các trường hợp còn lại xảy ra trong suốt thời gian nhập viện ban đầu (n=10, 21%) và trong thời gian theo dõi (n=31, 64%). Các triệu chứng xuất hiện bao gồm đau ngực cấp tính (n=16, 33%), ngất xỉu (n=12, 25%), và tử vong đột ngột (n=9, 19%), trong khi một phần tư bệnh nhân không có triệu chứng (n=12, 25%). Hầu hết bệnh nhân trải qua sửa chữa phẫu thuật khẩn cấp (n=25) hoặc theo kế hoạch (n=5). Kết quả là tử vong ở 20 trong số 48 bệnh nhân (42%). Nguyên nhân của rAAD bao gồm stent graft tự nó (60%), thao tác với dây hướng dẫn/bộ phận bảo vệ (15%), và sự tiến triển của bệnh lý động mạch chủ cơ bản (15%).

Kết luận— Tỷ lệ mắc rAAD là thấp (1.33%) trong phân tích hiện tại với tỷ lệ tử vong cao (42%). Bệnh nhân trải qua TEVAR do giải phẫu loại B có vẻ dễ mắc phải rAAD nhất. Biến chứng này không chỉ xảy ra trong suốt thời gian nhập viện ban đầu mà còn sau khi ra viện lên tới 1050 ngày sau TEVAR. Quan trọng hơn, phần lớn các trường hợp rAAD liên quan đến việc sử dụng stent graft có lò xo không bọc ở đầu gần với bằng chứng trực tiếp về tổn thương do stent graft gây ra trong phẫu thuật hoặc khám nghiệm tử thi ở một nửa số bệnh nhân.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1093/eurheartj/ehi493

10.1016/j.jtcvs.2006.03.055

10.1016/j.jvs.2007.08.020

10.1007/s003920200024

10.1055/s-2002-32415

10.1067/mva.2002.122884

Fanelli F, Salvatori FM, Marcelli G, Bezzi M, Totaro M, Vagnarelli S, Dake MD, Rossi P, Passariello R. Type A aortic dissection developing during endovascular repair of an acute type B dissection. J Endovasc Ther. 2003; 10: 254–259.

10.1016/S0003-4975(02)05002-6

10.1583/04-1369.1

10.1583/04-1490MR2.1

10.1016/j.ejcts.2008.03.024

10.1016/S0022-5223(19)34288-6

10.1177/15266028040110S609

10.1161/circ.99.10.1331

10.1016/S0002-9149(01)02312-8

10.1016/j.athoracsur.2008.06.057