Căng thẳng là gì? Các công bố khoa học về Căng thẳng

Căng thẳng là phản ứng sinh lý tự nhiên trước áp lực, có thể chia thành căng thẳng cấp tính và mãn tính. Căng thẳng cấp tính là ngắn hạn, thường gặp trong các tình huống như thi cử và có thể có lợi, trong khi căng thẳng mãn tính kéo dài dẫn đến suy giảm sức khỏe. Nguyên nhân gây căng thẳng bao gồm công việc, tài chính, mối quan hệ và biến đổi cuộc sống. Tác động của căng thẳng tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần. Để giảm thiểu, người ta có thể tập thể dục, thực hành thư giãn, quản lý thời gian, và tâm sự với người khác.

Giới Thiệu Về Căng Thẳng

Căng thẳng là phản ứng sinh lý tự nhiên của cơ thể trước các áp lực từ môi trường xung quanh. Nó có thể là phản ứng ngắn hạn khi đối mặt với các thách thức hoặc mối nguy hiểm, nhưng cũng có thể chuyển thành căng thẳng dài hạn với những tác động tiêu cực đến sức khỏe và tinh thần.

Các Loại Căng Thẳng

Căng thẳng có thể được chia thành hai loại chính: căng thẳng cấp tínhcăng thẳng mãn tính.

  • Căng thẳng cấp tính: Là phản ứng ngắn hạn mà cơ thể thường trải qua khi gặp phải những tình huống nhất định như thi cử, phát biểu trước công chúng, hoặc khi gặp nguy hiểm. Căng thẳng cấp tính có thể mang lại lợi ích, giúp con người nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và đối phó với tình huống tốt hơn.
  • Căng thẳng mãn tính: Xảy ra khi con người phải đương đầu với áp lực trong một thời gian dài, chẳng hạn như công việc căng thẳng, vấn đề tài chính, hoặc mối quan hệ rạn nứt. Căng thẳng mãn tính gây ra rất nhiều tác hại đến sức khỏe thể chất và tinh thần.

Nguyên Nhân Gây Ra Căng Thẳng

Căng thẳng có thể phát sinh từ nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm:

  • Công việc: Áp lực công việc, khối lượng công việc quá nhiều hoặc không an toàn về công việc.
  • Tài chính: Áp lực từ các khoản nợ, chi tiêu vượt quá khả năng hoặc mất việc làm.
  • Mối quan hệ: Xung đột với người thân, bạn bè hoặc đồng nghiệp.
  • Thay đổi lớn trong cuộc sống: Chuyển nhà, ly hôn, hoặc mất người thân.

Tác Động Của Căng Thẳng Đến Sức Khỏe

Căng thẳng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe theo nhiều cách khác nhau:

  • Sức khỏe thể chất: Tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, giảm khả năng miễn dịch, gây ra các vấn đề tiêu hóa.
  • Sức khỏe tinh thần: Làm tăng nguy cơ mắc chứng trầm cảm, lo âu, rối loạn giấc ngủ và khó tập trung.

Cách Giảm Thiểu Căng Thẳng

Để quản lý và giảm thiểu căng thẳng hiệu quả, bạn có thể áp dụng một số phương pháp sau:

  • Luyện tập thể dục thường xuyên: Tập thể dục giúp cơ thể giải phóng endorphin, tạo cảm giác thư giãn và hạnh phúc.
  • Kỹ thuật thư giãn: Thực hành yoga, thiền, hoặc hít thở sâu để thư giãn cơ thể và tâm trí.
  • Quản lý thời gian: Lên kế hoạch công việc và sử dụng thời gian hợp lý để giảm bớt áp lực.
  • Tâm sự với người khác: Chia sẻ với bạn bè hoặc nhà tư vấn để giải tỏa căng thẳng và tìm kiếm sự hỗ trợ.

Kết Luận

Căng thẳng, nếu không được quản lý tốt, có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Hiểu về các nguyên nhân, dấu hiệu và biện pháp đối phó có thể giúp bạn kiểm soát căng thẳng hiệu quả hơn, góp phần duy trì một cuộc sống cân bằng và hạnh phúc.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "căng thẳng":

TÌNH TRẠNG CĂNG THẲNG CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN COVID-19 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - Trang - 2021
Đặt vấn đề: Nhân viên y tế là đối tượng tiếp xúc trực tiếp với cảm xúc tiêu cực ở mức độ cao dường như làm tăng nguy cơ dẫn đến hậu quả lâu dài như căng thẳng thứ phát, các triệu chứng trầm cảm hoặc kiệt sức nghề nghiệp với các kết quả bất lợi đến chất lượng chăm sóc sức khỏe. Mục tiêu: Đánh giá mức độ căng thẳng của nhân viên y tế và một số yếu tố liên quan tại một số bệnh viện điều trị bệnh nhân COVID-19 tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2021. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 244 nhân viên y tế tại 12 bệnh viện, cơ sở y tế tuyến đầu điều trị COVID-19 tại thành phố Hồ Chí Mình. Sử dụng cấu phần căng thẳng từ thang đo Trầm cảm – Lo âu – căng thẳng (DASS-21) để đánh giá mức độ căng thẳng của nhân viên y tế. Kết quả: Trong 244 nhân viên y tế tham gia nghiên cứu, tỷ lệ có tình trạng căng thẳng là 80,3%, trong đó tỷ lệ có căng thẳng ở mức độ rất nặng, nặng, vừa và nhẹ lần lượt là: 12,3%, 27,9%, 22,5% và 17,6%. Phân tích hồi quy logistic cho thấy có 2 yếu tố liên quan đến tình trạng căng thẳng ở nhân viên y tế bao gồm: trực tiếp tham gia điều trị bệnh nhân COVID-19 (OR=2,14, 95%CI: 1,01 - 4,53; p<0,05) và thường xuyên chịu áp lực từ cấp trên trong công việc (OR= 7,05; 95%CI: 1,55 - 31,9; p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ nhân viên y tế có tình trạng căng thẳng rất cao. Cần giảm thời gian làm việc và tăng cường chính sách đảm bảo an toàn môi trường bệnh viện, đặc biệt quan tâm nhiều hơn cho nhân viên y tế tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân COVID-19 tron quá trình điều trị
#Căng thẳng #nhân viên y tế #COVID-19 #thành phố Hồ Chí Minh
Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại Trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 226-234 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng là 199 nữ sinh viên điều dưỡng chính quy năm thứ nhất và năm thứ hai đang học tại trường Đại học Y Dược Thái Bình; thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Tổng điểm căng thẳng cảm xúc của nữ sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất và năm thứ 2 trường Đại học Y Dược Thái Bình là 24,1 ± 5,8. Tỷ lệ sinh viên có căng thẳng cảm xúc mức độ cao là 20,6%. Tỷ lệ sinh viên chịu áp lực học tập mức độ cao là 29,1%. Tỷ lệ sinh viên có mức hỗ trợ xã hội chưa tốt chiếm 44,2%. Sinh viên học lớp tiếng Nhật có nguy cơ căng thẳng cảm xúc ở mức độ cao cao hơn so với nhóm sinh viên học lớp tiếng Anh, p < 0,05. Sinh viên có học lực trung bình khá trở xuống có nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao cao hơn so với sinh viên có học lực khá trở lên với p < 0,05. Nhóm sinh viên có áp lực học tập ở mức cao có nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao cao hơn nhóm có áp lực học tập mức độ trung bình và thấp với p <0,05. Nguy cơ căng thẳng cảm xúc mức độ cao của nhóm sinh viên được hỗ trợ xã hội chưa tốt cao hơn so với nhóm sinh viên nhận sự hỗ trợ xã hội tốt với p < 0,05. Kết luận: Tỷ lệ sinh viên có căng thẳng cảm xúc mức độ cao là 20,6%. Tỷ lệ sinh viên chịu áp lực học tập mức độ cao là 29,1% do đó bản thân sinh viên, nhà trường, gia đình, xã hội cần phối hợp để cải thiện tình trạng căng thẳng cảm xúc cho sinh viên.
#Sinh viên điều dưỡng #căng thẳng cảm xúc #Thái Bình
33. Căng thẳng ở nhân viên y tế tại trung tâm y tế và trạm y tế phường/xã ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2022 và các yếu tố nghề nghiệp liên quan
Nhu cầu về y tế và chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng tăng cao, mô hình bệnh tật thay đổi, cũng như sự xuất hiện dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, khối lượng công việc lớn và những nguy hại của đặc thù nghề nghiệp - những điều này có thể khiến cho nhân viên y tế bị căng thẳng. Nghiên cứu cắt ngang trên 272 nhân viên y tế tại trung tâm y tế và trạm y tế phường/xã ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2022 nhằm mô tả tỷ lệ căng thẳng và các yếu tố nghề nghiệp liên quan. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhân viên y tế có căng thẳng là 15,4% theo thang đo PSS-10. Các yếu tố nghề nghiệp liên quan đến căng thẳng trong nghiên cứu tìm ra được là trình độ học vấn, quá tải công việc và hài lòng với thu nhập. Những đối tượng có trình độ cao đẳng có tỷ lệ căng thẳng cao gấp 4,02 lần những người có trình độ trung cấp (KTC 95%: 1,25 - 12,99). Những nhân viên y tế cảm thấy quá tải công việc hay không hài lòng với thu nhập có tỷ lệ căng thẳng cao hơn những nhân viên không có đặc tính này. Cần có các biện pháp hỗ trợ cho nhân viên y tế để giảm tỷ lệ căng thẳng, giúp họ tập trung công tác và hoàn thành nhiệm vụ.
#căng thẳng #nhân viên y tế #trung tâm y tế #PSS-10 #yếu tố nghề nghiệp
TÌNH TRẠNG LO ÂU, TRẦM CẢM VÀ CĂNG THẲNG CỦA SINH VIÊN Y TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ TRONG ĐỢT DỊCH COVID-19 LẦN 4
Đặt vấn đề: Đại dịch COVID-19 đã đặt ra yêu cầu, thách thức to lớn cho nhân viên y tế, đặc biệt trong đó có sinh viên y khoa ngoài áp lực về việc học, sinh viên cũng chịu nhiều áp lực hơn khi tham gia hỗ trợ công tác phòng chống dịch COVID-19 tại các địa phương. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ, mức độ và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu ở sinh viên tham gia phòng chống dịch COVID-19. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 816 sinh viên Y năm thứ 3 đến năm thứ 6 của trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Kết quả: Điểm số trung bình chung cho trầm cảm là: 6,83±7,52; lo âu là: 6,29±6,25 và cho căng thẳng là: 10±8,27. Tần suất mắc trầm cảm, lo âu và căng thẳng của sinh viên trong đại dịch COVID-19 theo DASS-21 lần lượt là 30,3%; 46,2%; 26,3%. Các rối loạn này đa số gặp ở mức độ nhẹ và vừa. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu và căng thẳng với giới tính, khóa học. Điều ngạc nhiên là nhóm sinh viên không tham gia chống dịch tại các địa phương lại có tỷ lệ bị trầm cảm nhiều hơn nhóm sinh viên có tham gia chống dịch. Kết luận: Đợt dịch COVID-19 lần thứ 4 đã có ảnh hưởng đến tình trạng lo âu, trầm cảm và căng thẳng của sinh viên y trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Có nhiều yếu tố liên quan đến các tình trạng này như giới tính, năm học và việc tham gia phòng chống dịch COVID-19 của sinh viên.
#Lo âu #trầm cảm #căng thẳng #DASS-21 #COVID-19 #sinh viên
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CĂNG THẲNG, LO ÂU, TRẦM CẢM CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐANG ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC TIÊM INSULIN BẰNG BỘ CÂU HỎI DASS-21
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1B - 2023
Đặt vấn đề: Căng thẳng, lo âu, trầm cảm này ở quần thể người bệnh đái tháo đường đã được nghiên cứu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, nhưng ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu có hệ thống về lĩnh vực này. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Đặc điểm lâm sàng căng thẳng, lo âu, trầm cảm của người bệnh đái tháo đường típ 2 đang điều trị bằng thuốc tiêm insulin bằng bộ câu hỏi DASS-21”. Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng căng thẳng, lo âu, trầm cảm của người bệnh đái tháo đường típ 2 đang điều trị bằng thuốc tiêm insulin. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả có phân tích trên 133 người bệnh đến khám ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ 04/2022 đến 09/2022. Công cụ nghiên cứu là thang đo DASS -21. Thống kê mô tả tần số phần trăm biến định tính, trung bình và độ lệch chuẩn với biến định lượng, phân tích mối tương quan bằng phép kiểm tương quan Pearson. Kết quả: Tỷ lệ căng thẳng, lo âu và trầm cảm của người bệnh theo thang đo DASS-21 lần lượt là 6,77%, 37,6%, 10,52%. Có mối tương quan thuận và mạnh giữa căng thẳng, lo âu và trầm cảm và điều này có ý nghĩa thống kê với hệ số tương quan r ≥ 0,75 và p < 0,001. Giới tính người bệnh tham gia nghiên cứu nữ chiếm tỉ lệ cao hơn nam (57,14% so với 42,86%). Tỉ lệ người bệnh có tăng huyết áp trong nghiên cứu của chúng tôi là 64,66%. Tỉ lệ người bệnh bị rối loạn lipid máu rất cao với 81,2%. Tỉ lệ tai biến mạch máu não trong nghiên cứu của chúng tôi là 5,26%. Tỉ lệ bệnh lý tim mạch trong nghiên cứu của chúng tôi là 11,28%. Biến chứng mạch máu ngoại biên 6,02%. Người bệnh có bệnh lý võng mạc ĐTĐ tham gia nghiên cứu là 9,02%. Biến chứng phải đoạn chi trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận chỉ 2,26%. Hạ đường huyết nặng phải nhập viện là 3,76%. Kết luận: Đa phần người bệnh mắc các bệnh như tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, không kiểm soát tốt đường huyết, nhiều biến chứng của bệnh ĐTĐ như: tai biến mạch máu não, tim mạch, bệnh lý mạch máu ngoại biên, bệnh lý mạch máu nhỏ, biến chứng đoạn chi và hạ đường huyết nặng phải nhập viện cấp cứu. Tỷ lệ căng thẳng, lo âu và trầm cảm ở người bệnh đái tháo đường típ 2 đang dùng thuốc tiêm insulin là đáng quan tâm. Cần phát hiện sớm người bệnh bị căng thẳng, lo âu, trầm cảm theo thang đo DASS - 21 vì mắc một trong ba loại rối loạn có nguy cơ cao mắc kết hợp rối loạn còn lại.
#Căng thẳng #lo âu #trầm cảm #đái tháo đường típ 2 #thuốc tiêm insulin
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CĂNG THẲNG, LO ÂU, TRẦM CẢM CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐANG ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC TIÊM INSULIN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Căng thẳng, lo âu, trầm cảm ở quần thể người bệnh đái tháo đường đang dùng thuốc tiêm insulin ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu có hệ thống. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài “các yếu tố liên quan đến căng thẳng, lo âu, trầm cảm của người bệnh đái tháo đường típ 2 đang điều trị bằng thuốc tiêm insulin”. Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa căng thẳng, lo âu, trầm cảm ở người bệnh đái tháo đường típ 2 với các yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả có phân tích trên 133 người bệnh đến khám ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ 04/2022 đến 09/2022. Công cụ nghiên cứu là thang đo DASS -21. Thống kê phân tích bằng phép kiểm T – test, ANOVA, Mann – Whitney, Kruskal – Wallis, Pearson. Kết quả: Tỷ lệ căng thẳng, lo âu và trầm cảm của người bệnh theo thang đo DASS-21 lần lượt là 6,77%, 37,6%, 10,52%. Có mối tương quan thuận và mạnh giữa căng thẳng, lo âu và trầm cảm và điều này có ý nghĩa thống kê với hệ số tương quan r ≥ 0,75 và p < 0,001. Có mối liên quan giữa căng thẳng với: tôn giáo, chi phí y tế, tuần suất kiểm tra đường huyết, thời gian mắc bệnh ĐTĐ, số lần tiêm insulin trong ngày, kiến thức về bút tiêm insulin, tăng huyết áp, đường huyết lúc đói, với p < 0,05. Có mối liên quan giữa lo âu với: độ tuổi người bệnh, kiến thức về bút tiêm insulin, đường huyết lúc đói, p < 0,05. Có mối liên quan giữa trầm cảm với: chi phí y tế, tuần suất kiểm tra đường huyết, thời gian mắc bệnh ĐTĐ 2, số lần tiêm insulin trong ngày, kiến thức về bút tiêm insulin, tăng huyết áp, đường huyết lúc đói, p < 0,05. Kết luận: Có mối tương quan thuận và mạnh giữa căng thẳng, lo âu và trầm cảm. Có các mối liên quan giữa căng thẳng, lo âu, trầm cảm với các yếu tố xã hôi, thông tin sức khỏe người bệnh và các yếu tố bệnh lý ĐTĐ típ 2 của người bệnh
#Căng thẳng #lo âu #trầm cảm #đái tháo đường típ 2 #thuốc tiêm insulin
NHU CẦU THÔNG TIN VÀ CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH SA SÚT TRÍ TUỆ TẠI HUYỆN THẠCH THẤT – THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NĂM 2020-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Mô tả nhu cầu thông tin và chăm sóc căng thẳng tâm lý của người chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ tại cộng đồng và một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 90 cặp người bệnh và người chăm sóc chính của họ sinh sống tại huyện Thạch Thất, Hà Nội năm 2020 – 2021. Nhu cầu thông tin và căng thẳng tâm lý của người chăm sóc được lượng giá bằng thang điểm Camberwell Assessment of Need for the Elderly (CANE). Kết quả: 55,6% trường hợp người chăm sóc chưa được đáp ứng nhu cầu về thông tin và căng thẳng tâm lý, trong đó trung bình 53,1% không nhận được trợ giúp từ nguồn không chính thức và 93,7% không nhận được trợ giúp từ nguồn chính thức. Nhu cầu thông tin và căng thẳng tâm lý của người chăm sóc tăng lên khi giai đoạn sa sút trí tuệ của người bệnh theo CDR tăng lên (p<0,05). Nhu cầu căng thẳng tâm lý có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến thu nhập bình quân của gia đình (p<0,05). Kết luận: Đa số người chăm sóc người bệnh sa sút trí tuệ chưa được đáp ứng nhu cầu thông tin và căng thẳng tâm lý kể cả từ nguồn trợ giúp không chính thức và chính thức, và có liên quan chặt chẽ đến giai đoạn bệnh và thu nhập của gia đình.
#sa sút trí tuệ #người chăm sóc #nhu cầu thông tin #nhu cầu căng thẳng tâm lý
THỰC TRẠNG CĂNG THẲNG CỦA HỌC SINH LỚP 12 (Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng)
Căng thẳng là trạng thái tâm lí cần thiết nhưng nếu căng thẳng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sống của chúng ta. Kết quả nghiên cứu về tình trạng căng thẳng của 395 học sinh lớp 12 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng bằng trắc nghiệm tâm lí DASS 21, bảng hỏi, phỏng vấn sâu cho thấy có 24,8% học sinh có dấu hiệu căng thẳng; số học sinh nữ có biểu hiện căng thẳng nhiều hơn so với HS nam… Những nguyên nhân gây ra căng thẳng liên quan đến kì thi THPT quốc gia; sự kì vọng của cha mẹ và vì các em đặt ra yêu cầu quá cao so với năng lực. Một trong những biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng căng thẳng cho học sinh được đề xuất đó là phụ huynh cần quan tâm đến cảm xúc của con cái, không thúc ép con học; giáo viên quan tâm và tận tình trả lời những băn khoăn của học sinh; nhà trường cần tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, tư vấn nghề và phương pháp học tập…
#stress; DASS 21 test; high School Students; study; national high school exam.
TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ và mức độ trầm cảm, lo âu, stress và các yếu tố liên quan của NVYT quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh năm 2021. Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện từ tháng 8/2021 đến 6/2022, chọn mẫu toàn bộ tất cả NVYT trong địa bàn quận Tân Phú, sử dụng thang đo DASS-21(thang đo trầm cảm, lo âu, stress) đã được chuẩn hóa tiếng Việt và có độ tin cậy cao để đánh giá trầm cảm, lo âu và stress, Tổng số 569 NVYT đã tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress ghi nhận lần lượt là 26,7%, 36,7% và 19,9%, các yếu tố liên quan đến trầm cảm gồm: tình trạng hôn nhân, số ngày tham gia chống dịch, có vấn đề áp lực từ thủ tục hành chính, sự hỗ trợ của cấp trên và sự hỗ trợ của gia đình; trong khi các yếu tố liên quan đến lo âu gồm: tình trạng nhà ở, thu nhập bản thân, áp lực thủ tục hành chính, sự hỗ trợ của gia đình; và yếu tố liên quan đến stress gồm: nhóm tuổi, trình độ học vấn khác, áp lực thủ tục hành chính, hỗ trợ của gia đình, hỗ trợ của cấp trên và tham gia đội hậu cần (p<0,05). Sức khỏe tâm thần của NVYT là một vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt sau tác động của đại dịch COVID-19. Các nhà quản lý cần xây dựng những chính sách hỗ trợ giúp NVYT có thể đối phó với các vấn đề trầm cảm, lo âu và stress tại cơ sở y tế.
#Lo âu #Trầm cảm #căng thẳng #Nhân viên y tế #quận Tân Phú
Sự chuẩn bị tâm lý cho việc thực hành lâm sàng trong đại dịch COVID-19 của sinh viên điều dưỡng
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về dịch COVID-19 và mức độ căng thẳng của sinh viên điều dưỡng (SVĐD) năm ba và năm tư trong thời gian tham gia thực hành lâm sàng tại các cơ sở y tế. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Mẫu thuận tiện, tất cả SVĐD năm 3 và năm 4 tham gia thực hành tại các cơ sở y tế đủ tiêu chí, được mời tham gia nghiên cứu. Thời gian tháng 4 năm 2022. Kết quả: Tổng số 131 SVĐD, trong đó sinh viên năm 3 là 90 (68.7%) và năm 4 là 41 (31.3%) tuổi trung bình của sinh viên là 21.3 (± 1.8), nữ chiếm 90.1%. Cảm nhận mức độ kiến ​​thức về COVID-19 là 3.15 (±0.55), thái độ là 3.39 (± 0.65) và thực hành là 3.30 (± 0.69). Về mức độ căng thẳng của SVĐD tham gia thực hành lâm sàng chung là 2.81 (± 0.89). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy kiến thức, thái độ và thực hành về COVID-19 đều ở mức độ trung bình cao (3.15 đến 3.39). Tuy nhiên, SVĐD cảm nhận mức độ căng thẳng cao từ 53.5% đến 72.3%. Kiến nghị: Tăng cường tập huấn nâng cao kiến thức chuyên môn và chuẩn bị kỹ năng thực hành lâm sàng, đồng thời chương trình hỗ trợ tâm lý cho SVĐD nhằm nâng cao khả năng tự tin để giảm mức độ căng thẳng là rất cần thiết.
#kiến thức #thái độ #thực hành #căng thẳng #sinh viên điều dưỡng #COVID-19
Tổng số: 63   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7