Bệnh bạch cầu cấp là gì? Các công bố khoa học về Bệnh bạch cầu cấp

Bệnh bạch cầu cấp, hay leukemia cấp, là ung thư máu và tủy xương, gây sản xuất nhiều tế bào bạch cầu bất thường. Bệnh được phân loại chính thành AML (phổ biến ở người lớn) và ALL (phổ biến ở trẻ em). Nguyên nhân chưa rõ, nhưng yếu tố nguy cơ gồm phơi nhiễm phóng xạ, tiền sử gia đình, và rối loạn di truyền. Triệu chứng gồm sốt, xuất huyết, mệt mỏi. Chẩn đoán thông qua xét nghiệm máu và sinh thiết tủy xương. Điều trị gồm hóa trị, xạ trị, và ghép tủy xương. Tiên lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, điều trị sớm giúp cải thiện cơ hội sống sót.

Bệnh Bạch Cầu Cấp: Tổng Quan

Bệnh bạch cầu cấp, hay còn gọi là leukemia cấp, là một loại ung thư máu và tủy xương. Ở bệnh này, cơ thể sản xuất ra một lượng lớn các tế bào bạch cầu bất thường. Các tế bào này xâm lấn máu và tủy xương, gây ra sự cản trở sản xuất các tế bào máu bình thường cần thiết khác.

Phân Loại Bệnh Bạch Cầu Cấp

Bệnh bạch cầu cấp được chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên loại tế bào bạch cầu bị ảnh hưởng, bao gồm:

  • Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy (AML): Phổ biến ở người lớn, thường phát triển nhanh. Nó ảnh hưởng đến các tế bào dòng tủy, một loại tế bào bạch cầu trong tủy xương.
  • Bệnh bạch cầu cấp dòng lympho (ALL): Phổ biến ở trẻ em và thanh thiếu niên, với tỷ lệ sống sót cao hơn khi điều trị sớm.

Nguyên Nhân và Yếu Tố Nguy Cơ

Nguyên nhân chính xác của bệnh bạch cầu cấp vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, có một số yếu tố nguy cơ có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh, bao gồm:

  • Phơi nhiễm phóng xạ hoặc hóa chất độc hại.
  • Tiền sử gia đình có người mắc bệnh bạch cầu.
  • Các rối loạn di truyền, chẳng hạn như hội chứng Down.

Triệu Chứng của Bệnh Bạch Cầu Cấp

Các triệu chứng của bệnh bạch cầu cấp thường phát triển nhanh và có thể bao gồm:

  • Sốt và nhiễm trùng tái diễn.
  • Xuất huyết, hay chảy máu bất thường, bao gồm chảy máu cam hoặc chảy máu lợi.
  • Mệt mỏi kéo dài và sụt cân không rõ nguyên nhân.
  • Đau và sưng các khớp hoặc hạch bạch huyết.

Chẩn Đoán Bệnh Bạch Cầu Cấp

Để chẩn đoán bệnh bạch cầu cấp, bác sĩ thường tiến hành các xét nghiệm như:

  • Xét nghiệm máu: Để kiểm tra số lượng bạch cầu, huyết sắc tố và tiểu cầu.
  • Sinh thiết tủy xương: Nhằm xác định sự hiện diện của các tế bào bạch cầu bất thường trong tủy xương.

Phương Pháp Điều Trị

Điều trị bệnh bạch cầu cấp thường phụ thuộc vào loại, giai đoạn của bệnh và tình trạng sức khỏe tổng thể của bệnh nhân. Các phương pháp điều trị chính bao gồm:

  • Hóa trị: Là liệu pháp chính dùng thuốc để tiêu diệt các tế bào ung thư.
  • Xạ trị: Sử dụng bức xạ năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư.
  • Ghép tủy xương: Là phương pháp nhẹ hơn bằng cách sử dụng tế bào gốc thay thế tủy xương bệnh lý.

Tiên Lượng và Phục Hồi

Tiên lượng bệnh bạch cầu cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độ tuổi, phản ứng với điều trị, và loại bệnh cụ thể. Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời là rất quan trọng để cải thiện cơ hội sống sót và phục hồi.

Phục hồi sau điều trị bệnh bạch cầu cấp có thể kéo dài, nhưng nhiều bệnh nhân có khả năng trở lại cuộc sống bình thường với sự giám sát y tế định kỳ và chăm sóc hỗ trợ.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh bạch cầu cấp":

Bản sửa đổi năm 2016 đối với phân loại các bệnh u của Tổ chức Y tế Thế giới về các khối u tủy và bạch cầu cấp tính Dịch bởi AI
Blood - Tập 127 Số 20 - Trang 2391-2405 - 2016
Tóm tắt

Phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về các khối u của các mô huyết học và bạch huyết lần cuối được cập nhật vào năm 2008. Kể từ đó, đã có nhiều tiến bộ trong việc xác định các dấu hiệu sinh học độc đáo liên quan đến một số khối u tủy và bạch cầu cấp tính, chủ yếu xuất phát từ phân tích diễn giải gen và giải trình tự thế hệ tiếp theo, có thể cải thiện đáng kể tiêu chí chẩn đoán cũng như độ liên quan về tiên lượng của các thực thể hiện đang được bao gồm trong phân loại của WHO và cũng gợi ý về những thực thể mới cần được thêm vào. Do đó, có một nhu cầu rõ ràng về việc sửa đổi phân loại hiện tại. Các sửa đổi đối với các danh mục bệnh u tủy và bạch cầu cấp tính sẽ được công bố trong một tài liệu riêng vào năm 2016 và phản ánh sự đồng thuận ý kiến của các nhà bệnh học huyết học, huyết học học, bác sĩ ung bướu và bác sĩ di truyền học. Ấn bản năm 2016 đại diện cho một sự sửa đổi của phân loại trước đó hơn là một phân loại hoàn toàn mới và cố gắng kết hợp các dữ liệu lâm sàng, tiên lượng, hình thái, miễn dịch định danh và di truyền mới nổi lên kể từ ấn bản trước. Các thay đổi lớn trong phân loại và lý do của chúng được trình bày ở đây.

#Phân loại WHO #khối u huyết học #khối u tủy #bạch cầu cấp tính #sinh học phân tử
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh bạch cầu lympho mãn tính: báo cáo từ Hội thảo Quốc tế về Bệnh bạch cầu lympho mãn tính cập nhật hướng dẫn của Nhóm Công tác Quốc gia về Ung thư năm 1996 Dịch bởi AI
Blood - Tập 111 Số 12 - Trang 5446-5456 - 2008
Tóm tắt

Các tiêu chí chuẩn hóa để chẩn đoán và đánh giá phản ứng là cần thiết để diễn giải và so sánh các thử nghiệm lâm sàng cũng như để phê duyệt các tác nhân điều trị mới bởi các cơ quan quản lý. Do đó, một Nhóm làm việc được tài trợ bởi Viện Ung thư Quốc gia (NCI-WG) về bệnh bạch cầu lympho mãn tính (CLL) đã công bố hướng dẫn cho thiết kế và thực hiện các thử nghiệm lâm sàng cho bệnh nhân mắc CLL vào năm 1988, và được cập nhật vào năm 1996. Trong thập kỷ qua, đã có những tiến bộ đáng kể trong việc xác định các dấu ấn tiên lượng mới, các thông số chẩn đoán và các lựa chọn điều trị. Điều này đã thúc đẩy Hội thảo Quốc tế về Bệnh bạch cầu lympho mãn tính (IWCLL) đưa ra các khuyến nghị cập nhật cho việc quản lý CLL trong các thử nghiệm lâm sàng và thực hành chung.

Kết quả theo dõi lâu dài của phác đồ cyclophosphamide hyperfractionated, vincristine, doxorubicin và dexamethasone (Hyper‐CVAD), một phác đồ liều cao, trong bệnh bạch cầu lympho cấp ở người lớn Dịch bởi AI
Cancer - Tập 101 Số 12 - Trang 2788-2801 - 2004
Tóm tắtĐẶT VẤN ĐỀ

Các phác đồ hóa trị liệu hiện đại đã cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu lympho cấp ở người lớn (ALL). Với các phác đồ này, tỷ lệ phản ứng hoàn toàn hiện nay được báo cáo là > 80%, và tỷ lệ sống sót lâu dài dao động từ 30% đến 45%. Phân tích hiện tại cập nhật kết quả lâu dài của chương trình cyclophosphamide hyperfractionated, vincristine, doxorubicin và dexamethasone (Hyper‐CVAD) ban đầu, với thời gian theo dõi trung bình là 63 tháng.

PHƯƠNG PHÁP

Giữa năm 1992 và 2000, 288 bệnh nhân đã được điều trị bằng Hyper‐CVAD. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 40 tuổi, và 59 bệnh nhân (20%) từ ≥ 60 tuổi trở lên. Tỷ lệ bạch cầu lympho cấp dương tính với nhiễm sắc thể Philadelphia (Ph) là 17%, và tỷ lệ bạch cầu lympho cấp tế bào T là 13%.

KẾT QUẢ

Một phản ứng hoàn toàn (CR) đã đạt được ở 92% bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong trong quá trình khởi động điều trị là 5% (2% nếu độ tuổi bệnh nhân < 60 tuổi, và 15% nếu độ tuổi bệnh nhân ≥ 60 tuổi). Với thời gian theo dõi trung bình là 63 tháng, tỷ lệ sống sót 5 năm là 38% và tỷ lệ thời gian CR 5 năm là 38%. Phân tích đa biến của các yếu tố tiên lượng cho thời gian CR đã xác định các yếu tố bất lợi sau: tuổi ≥ 45 tuổi, bạch cầu ≥ 50 × 109/L, trạng thái chức năng kém (điểm của Nhóm Hợp tác Ung thư Đông (ECOG) 3–4), bệnh dương tính với Ph, hình thái L2 theo tiêu chuẩn Pháp–Mỹ–Anh, > 1 đợt để đạt CR, và tỷ lệ bạch cầu trong tủy xương vào Ngày 14 > 5%. Bệnh nhân được chia thành các nhóm nguy cơ thấp (điểm nguy cơ 0–1; 37%), nguy cơ trung bình (điểm nguy cơ 2–3; 36%), và nhóm nguy cơ xấu (điểm nguy cơ ≥ 4; 27%) với tỷ lệ thời gian CR 5 năm tương ứng là 52%, 37% và 10%.

#bệnh bạch cầu lympho cấp #phác đồ Hyper‐CVAD #cyclophosphamide #vincristine #doxorubicin #dexamethasone #tỷ lệ sống sót #theo dõi lâu dài
Thành phần arsenic trioxide duy nhất trong điều trị bệnh bạch cầu tủy bào cấp mới chẩn đoán: Điều trị lâu dài với tác dụng phụ tối thiểu Dịch bởi AI
Blood - Tập 107 Số 7 - Trang 2627-2632 - 2006
Tóm tắt

Arsenic trioxide, khi được sử dụng như một tác nhân đơn lẻ, đã chứng minh được hiệu quả trong việc gây ra sự thuyên giảm phân tử ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu tiền tủy bào cấp (APL). Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu về kết quả lâu dài khi sử dụng arsenic trioxide đơn lẻ trong điều trị các trường hợp mới chẩn đoán APL. Từ tháng 1 năm 1998 đến tháng 12 năm 2004, 72 trường hợp mới được chẩn đoán APL được điều trị với một quy trình sử dụng arsenic trioxide đơn lẻ tại trung tâm của chúng tôi. Thuyên giảm huyết học hoàn toàn đạt được ở 86.1% số bệnh nhân. Với thời gian theo dõi trung bình 25 tháng (khoảng: 8-92 tháng), ước tính Kaplan-Meier trong 3 năm của EFS, DFS và OS lần lượt là 74.87% ± 5.6%, 87.21% ± 4.93%, và 86.11% ± 4.08%. Những bệnh nhân được chẩn đoán với chỉ số bạch cầu (WBC) dưới 5 × 10^9/L và số lượng tiểu cầu cao hơn 20 × 10^9/L (n = 22 [30.6%]) có tiên lượng rất tốt với chế độ điều trị này (EFS, OS và DFS là 100%). Phần lớn, hồ sơ độc tính của chế độ điều trị là nhẹ và có thể đảo ngược. Sau khi gây thuyên giảm, chế độ điều trị này được thực hiện trên cơ sở ngoại trú. Sử dụng arsenic trioxide đơn lẻ như trong loạt nghiên cứu này trong việc quản lý các trường hợp mới chẩn đoán APL liên quan với các đáp ứng so sánh được với các chế độ hóa trị liệu truyền thống. Hơn nữa, chế độ này ít độc tính và có thể được thực hiện trên cơ sở ngoại trú sau khi gây thuyên giảm.

#arsenic trioxide #bệnh bạch cầu tiền tủy bào cấp #APL #điều trị đơn lẻ #thuyên giảm phân tử #hóa trị liệu #độc tính tối thiểu
Nghiên cứu Giai đoạn I về Decitabine một mình hoặc kết hợp với Axit Valproic trong Bệnh bạch cầu cấp Myeloid Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 25 Số 25 - Trang 3884-3891 - 2007
Mục đích

Để xác định liều sinh học tối ưu (OBD) của decitabine như một tác nhân đơn lẻ và sau đó là liều tối đa có thể chịu đựng (MTD) của axit valproic (VA) kết hợp với decitabine trong bệnh bạch cầu cấp myeloid (AML).

Bệnh nhân và Phương pháp

Hai mươi lăm bệnh nhân (tuổi trung bình, 70 tuổi) đã được đưa vào nghiên cứu; 12 bệnh nhân chưa điều trị và 13 bệnh nhân đã tái phát AML. Để xác định OBD (dựa trên một điểm kết thúc tái biểu hiện gen), 14 bệnh nhân đã nhận decitabine đơn độc trong 10 ngày. Để xác định MTD, 11 bệnh nhân nhận decitabine (tại OBD, ngày 1 đến 10) cộng với VA tăng liều (ngày 5 đến 21).

Kết quả

OBD của decitabine là 20 mg/m2/d tiêm tĩnh mạch, với độc tính không huyết học hạn chế. Ở những bệnh nhân được điều trị với decitabine cộng với VA, bệnh não do thuốc xảy ra ở hai bệnh nhân trong số hai bệnh nhân tại VA 25 mg/kg/d và một trong sáu bệnh nhân tại VA 20 mg/kg/d. Sự tái biểu hiện thụ thể estrogen (ER) do thuốc gây ra có liên quan đến phản ứng lâm sàng (P ≤ .05). Sự khử methyl promoter ER, hypomethylation DNA toàn cầu, suy giảm enzym DNA methyltransferase và hyperacetylation histone cũng đã được quan sát. Trong một phân tích theo ý định điều trị, tỷ lệ phản ứng là 44% (11 trong số 25). Trong số 21 bệnh nhân có thể đánh giá, 11 (52%) đã đáp ứng: bốn bệnh nhân có hồi phục hoàn toàn về hình thái và tế bào học (CR; mỗi bệnh nhân có kiểu gen phức tạp), bốn bệnh nhân có CR không hoàn chỉnh, và ba bệnh nhân có hồi phục từng phần. Trong số AML chưa được điều trị, bốn trong chín bệnh nhân có thể đánh giá đã đạt CR. Các phản ứng lâm sàng dường như tương tự cho decitabine đơn độc hoặc với VA.

Kết luận

Decitabine liều thấp là an toàn và cho thấy hoạt động lâm sàng và sinh học đầy hứa hẹn trong AML, nhưng việc thêm VA dẫn đến bệnh não ở liều tương đối thấp. Dựa trên các kết quả này, cần nghiên cứu thêm về decitabine (20 mg/m2/d trong 10 ngày) đơn độc hoặc kết hợp với một tác nhân khử axetat thay thế.

Ý nghĩa của di truyền tế bào đối với thuyên tắc tĩnh mạch trong bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính Dịch bởi AI
Thrombosis and Haemostasis - Tập 113 Số 01 - Trang 201-208 - 2015
Tóm tắt

Do nguy cơ cao về tiểu cầu giảm và xuất huyết, các biến chứng huyết khối đã nhận được ít sự chú ý ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML). Hơn nữa, vai trò dự đoán của di truyền tế bào đối với thuyên tắc tĩnh mạch (VTE) đã bị bỏ qua trong nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tỷ lệ, các yếu tố nguy cơ và khía cạnh tiên lượng của VTE trong AML. Tổng cộng 811 bệnh nhân mắc AML liên tiếp đã được tuyển chọn và phân tích hồi cứu. Phân tích hồi quy Cox với biến số phụ thuộc thời gian đã được sử dụng để xác định các yếu tố dự đoán có ý nghĩa về sự phát triển của VTE. Để giảm thiểu các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn, chúng tôi đã sử dụng phương pháp matching theo điểm xu hướng để so sánh tỷ lệ sống sót toàn bộ giữa các bệnh nhân có và không có VTE. Tỷ lệ mắc VTE tích lũy sau 6 tháng và 1 năm lần lượt là 3,1% (Khoảng tin cậy [CI] 95%, 2,0–4,7) và 3,9% (CI 95%, 2,6–5,7). Trong số 26 trường hợp VTE, 22 (85%) phát triển trong vòng 6 tháng kể từ khi chẩn đoán bệnh bạch cầu và 13 (50%) có liên quan đến catheter. Trong phân tích đa biến, độ tuổi cao (≥ 65 tuổi) (tỷ lệ nguy cơ [HR], 2,70; p = 0,03) và nguy cơ di truyền tế bào gia tăng (HR phổ biến, 1,84; p = 0,05) là các yếu tố độc lập dự đoán sự phát triển của VTE. Không có sự liên kết có ý nghĩa giữa sự phát triển của VTE và tỷ lệ sống giảm (p = 0,32 cho phân tích thuần nhất). Độ tuổi cao và nguy cơ di truyền tế bào gia tăng, những yếu tố dự đoán được biết đến cho kết quả lâm sàng trong AML, cũng là các yếu tố nguy cơ độc lập của sự phát triển VTE. Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng VTE không có ý nghĩa tiên lượng đối với AML.

Bệnh lao lan tỏa sau khi ghép tế bào gốc không liên quan lần thứ hai cho bệnh bạch cầu cấp myelogenous Dịch bởi AI
Transplant Infectious Disease - Tập 11 Số 1 - Trang 75-77 - 2009

Tóm tắt: Chúng tôi báo cáo trường hợp của một phụ nữ Nhật Bản 43 tuổi mắc bệnh bạch cầu cấp myelogenous, người đã trải qua 2 lần ghép tế bào gốc dây rốn không liên quan (UCBT), dẫn đến bệnh lao (TB) lan tỏa dẫn đến tử vong. Bệnh nhân không đạt được tình trạng thuyên giảm mặc dù đã tiến hành hóa trị liệu tích cực, và sau đó đã thực hiện UCBT với một chế độ điều trị chuẩn. Tuy nhiên, việc cấy ghép không thành công. Năm mươi ngày sau lần UCBT đầu tiên, bệnh nhân đã trải qua lần UCBT thứ hai với một chế độ điều trị giảm cường độ. Cô đã phát triển một phản ứng miễn dịch trước cấy ghép, phản ứng tốt với prednisolon, và việc cấy ghép đã được ghi nhận. Tuy nhiên, 50 ngày sau UCBT thứ hai, bệnh nhân xuất hiện sốt cao và phát triển viêm phổi mặc dù đã điều trị kháng sinh và kháng nấm. Sau đó, Mycobacterium tuberculosis được phát hiện trong các mẫu nuôi cấy máu và các mẫu rửa phế quản phế nang, cho thấy bệnh lao lan tỏa. Mặc dù đã điều trị lao, cô đã tử vong vào ngày 85. TB nên luôn được coi là một chẩn đoán có thể trong quá trình điều trị cho những bệnh nhân suy giảm miễn dịch có sốt.

#bệnh lao #bệnh bạch cầu cấp myelogenous #ghép tế bào gốc #bệnh nhân suy giảm miễn dịch
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO B Ở TRẺ EM CÓ ĐỘT BIẾN CHUYỂN ĐOẠN t(1;19)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá đặc điểm sinh học, hiệu quả điều trị lâu dài, thời gian sống còn và biến chứng điều trị bạch cầu cấp lympho B (BCCLB) trẻ em có đột biến t(1;19) bằng phác đồ FRALLE 2000. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu: 38 bệnh nhân (BN) thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu với tuổi trung vị là 5 tuổi, được điều trị bằng phác đồ FRALLE 2000 tại khoa Huyết học Trẻ em 1 và Huyết học trẻ em 2 - Bệnh viện Truyền máu Huyết Học từ 2010 - 2020. Kết quả: Đột biến sinh học phân tử khác kèm theo là khá phổ biến (39,5%). Đa số không có kiểu hình miễn dịch bất thường (LAIPs) theo dõi tồn lưu tế bào ác tính (MRD) (89,5%). Toàn bộ BN đạt lui bệnh sau giai đoạn tấn công của phác đồ, chúng tôi ghi nhận thời gian sống toàn bộ (OS) và thời gian sống không sự kiện (EFS) sau 5 năm lần lượt là là 84,4% và 70,9%. Tỉ lệ tái phát tích luỹ là 27,1%.  Không có sự khác biệt có ý nghĩa OS, EFS giữa nhóm t(1;19) đơn độc và nhóm t(1;19) kèm bất thường khác. MRD dương tính sau tấn công là yếu tố tiên lượng mạnh mẽ nhất, cho EFS khác biệt có ý nghĩa (p<0,01). Biến chứng nổi bật là nhiễm trùng, gặp trong mọi giai đoạn của điều trị. Một trường hợp (2,6%) tử vong trong điều trị do liệt ruột và sốc nhiễm trùng. Kết luận: MRD dương tính sau tấn công làm tăng nguy cơ tái phát bệnh. Tuy nhiên BCCLB ở trẻ em có t(1;19) đa số không có LAIPs để theo dõi MRD bằng kỹ thuật dòng chảy tế bào (Flow cytometry), công cụ sinh học phân tử là trung tâm để theo dõi sau điều trị. Với phác đồ FRALLE 2000 được áp dụng tại bệnh viện Truyền máu - Huyết học, hiệu quả điều trị khá tốt, tương đương với điều trị BCCLB trẻ em nói chung. Cho thấy chuyển đoạn t(1;19) không phải là yếu tố tiên lượng xấu.
#Bạch cầu cấp lympho #chuyển đoạn t(1;19) #tổ hợp gen E2A-PBX1
Thực trạng kiến thức về chăm sóc trẻ mắc bệnh bạch cầu cấp của người chăm sóc chính tại Viện Huyết học và truyền máu Trung ương
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 280-288 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về chăm sóc trẻ mắc bệnh bạch cầu cấp của người chăm sóc chính tại Viện Huyết học truyền máu trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 182 người chăm sóc chính trẻ mắc bệnh bạch cầu cấp tại Khoa Bệnh máu Trẻ em, Viện Huyết học truyền máu trung ương. Kết quả: Tỷ lệ kiến thức đạt của người chăm sóc chính về chăm sóc trẻ mắc bạch cầu cấp là 70,9%. Trong đó, kiến thức chung về bệnh có giá trị trung bình lớn nhất là 11 ± 3,08. Phần lớn, người chăm sóc chính biết chế độ ăn của trẻ cần giàu dinh dưỡng và trẻ cần uống nhiều các loại dịch mỗi ngày. Tuy nhiên, còn một số kiến thức về chăm sóc trẻ còn hạn chế như kiến thức không đúng và không biết về chế độ ăn trước hóa trị liệu tương ứng là: 56% và 23,1%, người chăm sóc không biết đến các dấu hiệu thiếu máu ở trẻ (28,6%), không biết nguyên nhân gây bệnh (44,5%),. Chế độ vận động cho trẻ chưa hợp lý, có 33,5% người chăm sóc chính cho rằng cần hạn chế vận động thể dục nhẹ hàng ngày và 24,7% người chăm sóc vẫn cho trẻ vận động bình thường khi trẻ có xuất huyết và nhiễm trùng nặng.Có mối liên quan giữa trình độ học vấn, giới tính và kiến thức chăm sóc trẻ của người chăm sóc chính, với p< 0,05. Kết luận: Thực trạng kiến thức về chăm sóc trẻ của người chăm sóc chính trẻ mắc bệnh bạch cầu cấp là khá tốt với tỷ lệ người chăm sóc chính có kiến thức đạt là 70,9%. Tuy nhiên, kiến thức về tuân thủ chế độ ăn trước hóa trị liệu, nhận biết dấu hiệu thiếu máu và vận động hợp lý cho trẻ còn hạn chế
#Bệnh bạch cầu cấp #kiến thức #người chăm sóc chính.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VÀ TIÊN LƯỢNG BỆNH BẠCH CẦU LYMPHO CẤP Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm lâm sàng, kết quả điều trị và mối tương quan giữa kết quả điều trị với yếu tố tiên lượng đối với bệnh lý bạch cầu lympho cấp tại khoa Ung bướu Nhi, Bệnh viện Ung bướu Hồ Chí Minh từ năm 2018-2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả loại 185 trường hợp bệnh nhân bạch cầu lympho cấp được chẩn đoán và điều trị tại khoa Ung bướu Nhi từ 2018-2021. Kết quả: Độ tuổi trung bình mắc bệnh là 6,32. Tỷ lệ Nam/Nữ là 1,46:1. Triệu chứng lâm sàng vẫn nổi bật là sốt và các triệu chứng toàn thân khác. Tỷ lệ bệnh nhân có tiếp xúc yếu tố nguy cơ là 36,22%. Tỷ lệ phân nhóm nguy cơ thấp, trung bình, cao của các bệnhnhân lần lượt là 47,02%, 8,64% và 44,34%. 2 phác đồ thường được sử dụng nhất tại khoa BFM 90 và FRALLE 2000. Tỷ lệ OS 3 năm đạt 84,32%. Thời gian điều trị trung bình đạt khoảng 22,85 tháng. Đối với các bệnh nhân tử vong, thời gian điều trị trung bình khoảng 18,17 tháng. Tỷ lệ tái phát là chiếm 11,9%. Kết quả điều trị và tiên lượng của bệnh nhân có mối tương quan với nhau (p = 0,016), theo đó các bệnh nhân tiên lượng thuận lợi có kết quả điều trị tốt hơn về thời gian sống còn so với nhóm các bệnh nhân thuộc nhóm tiên lượng không thuận lợi.
Tổng số: 51   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6