Ý nghĩa của di truyền tế bào đối với thuyên tắc tĩnh mạch trong bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính

Thrombosis and Haemostasis - Tập 113 Số 01 - Trang 201-208 - 2015
Yun‐Gyoo Lee, Inho Kim, Ji-Hyun Kwon, Sung Soo Yoon, Seongyang Park1, Leo Song, Jae‐Ho Yoon, Seung‐Hwan Shin, Woo‐Sung Min, Hee‐Je Kim2
1Seongyang Park, M D, PhD, Department of Internal Medicine, Division of Hematology and Medical Oncology, Seoul National University Hospital, Seoul National University College of Medicine, 101 Daehak-ro, Jongno-gu, Seoul 110-744, Korea, Tel.: +82 2 2072 3347; Fax: +82 2 762 9662, E-mail: [email protected].
2Catholic University of Korea, Seoul, South Korea

Tóm tắt

Tóm tắt

Do nguy cơ cao về tiểu cầu giảm và xuất huyết, các biến chứng huyết khối đã nhận được ít sự chú ý ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML). Hơn nữa, vai trò dự đoán của di truyền tế bào đối với thuyên tắc tĩnh mạch (VTE) đã bị bỏ qua trong nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tỷ lệ, các yếu tố nguy cơ và khía cạnh tiên lượng của VTE trong AML. Tổng cộng 811 bệnh nhân mắc AML liên tiếp đã được tuyển chọn và phân tích hồi cứu. Phân tích hồi quy Cox với biến số phụ thuộc thời gian đã được sử dụng để xác định các yếu tố dự đoán có ý nghĩa về sự phát triển của VTE. Để giảm thiểu các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn, chúng tôi đã sử dụng phương pháp matching theo điểm xu hướng để so sánh tỷ lệ sống sót toàn bộ giữa các bệnh nhân có và không có VTE. Tỷ lệ mắc VTE tích lũy sau 6 tháng và 1 năm lần lượt là 3,1% (Khoảng tin cậy [CI] 95%, 2,0–4,7) và 3,9% (CI 95%, 2,6–5,7). Trong số 26 trường hợp VTE, 22 (85%) phát triển trong vòng 6 tháng kể từ khi chẩn đoán bệnh bạch cầu và 13 (50%) có liên quan đến catheter. Trong phân tích đa biến, độ tuổi cao (≥ 65 tuổi) (tỷ lệ nguy cơ [HR], 2,70; p = 0,03) và nguy cơ di truyền tế bào gia tăng (HR phổ biến, 1,84; p = 0,05) là các yếu tố độc lập dự đoán sự phát triển của VTE. Không có sự liên kết có ý nghĩa giữa sự phát triển của VTE và tỷ lệ sống giảm (p = 0,32 cho phân tích thuần nhất). Độ tuổi cao và nguy cơ di truyền tế bào gia tăng, những yếu tố dự đoán được biết đến cho kết quả lâm sàng trong AML, cũng là các yếu tố nguy cơ độc lập của sự phát triển VTE. Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng VTE không có ý nghĩa tiên lượng đối với AML.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1001/archinte.160.6.809

10.1002/cncr.21496

10.1001/jama.293.6.715

10.1111/j.1538-7836.2007.02374.x

10.1200/JCO.2009.22.8197

10.1182/blood-2008-08-175745

10.1001/archinte.166.4.458

10.1016/j.thromres.2004.07.016

10.1111/j.1538-7836.2005.01467.x

10.1038/sj.bjc.6602945

10.1159/000098700

10.1182/blood-2002-03-0772

Grimwade, 1998, Blood, 92, 2322, 10.1182/blood.V92.7.2322

Slovak, 2000, Blood, 96, 4075, 10.1182/blood.V96.13.4075

10.1001/jama.291.20.2441

10.1182/blood-2007-10-116327

O’Donnell, 2012, J Natl Compr Canc Netw, 10, 984, 10.6004/jnccn.2012.0103

10.1111/j.1365-2141.2005.05753.x

10.1161/01.CIR.0000131660.51520.9A

10.1016/j.thromres.2013.08.007