Đê cọc rỗng là gì? Các công bố khoa học về Đê cọc rỗng

Đê cọc rỗng là công trình thủy lợi nhằm ngăn nước biển, dòng sông và kiểm soát lũ lụt. Sử dụng các cọc rỗng bền chắc, đê cấu thành hệ thống vững chắc, tiết kiệm nguyên vật liệu. Xuất phát từ Trung Hoa, La Mã cổ đại, đê cọc rỗng được cải tiến nhờ tiến bộ công nghệ, với cấu trúc gồm cọc rỗng, lõi cọc và hệ thống liên kết. Ưu điểm là tiết kiệm vật liệu, sức chịu tải tốt, dễ lắp đặt và bảo trì. Ứng dụng trong bảo vệ bờ biển, xây dựng cầu cảng và chống biến đổi khí hậu, đê cọc rỗng đang phổ biến trong xây dựng hiện đại.

Đê Cọc Rỗng: Khái Niệm và Lịch Sử Phát Triển

Đê cọc rỗng là một công trình thủy lợi xây dựng để ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển, dòng chảy sông hoặc để kiểm soát lũ lụt. Điểm nổi bật của đê cọc rỗng là việc sử dụng các cọc rỗng có độ bền cao cắm sâu xuống lòng đất, tạo ra một kết cấu vững chắc nhưng tiết kiệm nguyên vật liệu.

Lịch sử của đê cọc rỗng có từ nhiều thế kỷ trước, xuất hiện trong các nền văn minh cổ truyền như Trung Hoa, La Mã. Tuy nhiên, với tiến bộ của công nghệ và khoa học kỹ thuật, đê cọc rỗng mới được ứng dụng rộng rãi và cải tiến đáng kể trong các dự án hiện đại.

Cấu Trúc và Thành Phần Chính

Một hệ thống đê cọc rỗng thường bao gồm các thành phần chính như:

  • Cọc Rỗng: Được làm từ vật liệu bền chắc như thép hay bê tông, cọc rỗng có nhiệm vụ chính là chịu tải và phân phối lực đều khắp hệ thống.
  • Lõi Cọc: Phần bên trong các cọc rỗng thường được để trống để giảm trọng lượng và chi phí, đồng thời tạo không gian cho các thiết bị cảm biến hoặc kỹ thuật khác nếu cần.
  • Hệ Thống Liên Kết: Các cọc rỗng được liên kết với nhau thông qua các thanh giằng hoặc bản nối, giúp hệ thống đê trở nên kiên cố và ổn định hơn.

Ưu Điểm của Đê Cọc Rỗng

Việc sử dụng đê cọc rỗng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, bao gồm:

  • Tiết Kiệm Nguyên Vật Liệu: Do cấu tạo rỗng, lượng nguyên vật liệu cần thiết để chế tạo và xây dựng bị giảm thiểu đáng kể.
  • Tăng Cường Khả Năng Chịu Lực: Dù tiết kiệm nguyên liệu, đê cọc rỗng vẫn giữ được khả năng chịu lực tốt, đáp ứng nhu cầu ngăn nước và chống lũ.
  • Dễ Dàng Trong Việc Cài Đặt và Bảo Trì: Các cọc rỗng nhẹ nhàng hơn so với cọc đặc, giúp quá trình vận chuyển và lắp đặt trở nên đơn giản hơn. Bên cạnh đó, việc bảo trì cũng ít tốn kém thời gian và công sức.

Những Ứng Dụng Đáng Chú Ý

Đê cọc rỗng được ứng dụng trên toàn cầu trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xây dựng đê điều, bảo vệ bờ biển, xây dựng cầu cảng, và công trình thủy lợi khác. Nhờ vào sự đa dạng và linh hoạt trong thiết kế, đê cọc rỗng cũng thường được sử dụng trong các dự án chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường ven biển.

Kết Luận

Với những ưu điểm vượt trội, đê cọc rỗng ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các công trình dân dụng và công nghiệp. Công nghệ và giải pháp xây dựng này không chỉ đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật và kinh tế mà còn đóng góp tích cực vào việc bảo vệ môi trường và ứng phó với thách thức của biến đổi khí hậu.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đê cọc rỗng":

Chiến lược PCR đa mảnh để nhận diện nhanh chóng các loại cấu trúc và biến thể của yếu tố mec trong Staphylococcus aureus kháng methicillin Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 46 Số 7 - Trang 2155-2161 - 2002
TÓM TẮT

Việc đặc trưng đầy đủ vi khuẩn kháng methicillin Staphylococcus aureus (MRSA) không chỉ yêu cầu xác định nền gen vi khuẩn mà còn cả cấu trúc của yếu tố phức tạp và dị hợp tử mec mà các vi khuẩn này mang, yếu tố này liên quan đến gen xác định tính kháng thuốc mecA. Chúng tôi báo cáo về sự phát triển, xác thực và ứng dụng của một chiến lược PCR đa mảnh cho phép đặc trưng sơ bộ nhanh chóng các loại yếu tố mec dựa trên các đặc điểm cấu trúc đã được chứng minh là điển hình của các yếu tố mec mang bởi nhiều chủng MRSA. Chiến lược này đã được xác thực bằng cách sử dụng một bộ sưu tập đại diện của các chủng MRSA đại dịch, trong đó đầy đủ cấu trúc của các yếu tố mec liên quan đã được xác định trước đó bằng cách lai ghép và sàng lọc PCR cũng như bằng phương pháp giải trình tự DNA. Phương pháp này đã được kiểm tra cùng với phương pháp phân loại theo nhiều locus và các phương pháp phân loại khác để đặc trưng hóa 18 mẫu đại diện cho các chủng MRSA thu thập được trong một đợt bùng phát tại bệnh viện ở Barcelona, Tây Ban Nha. PCR đa mảnh đã được chứng minh là nhanh chóng, đáng tin cậy, và có khả năng trong một thử nghiệm xác định năm loại cấu trúc của yếu tố mec giữa các chủng này, ba biến thể chính và hai biến thể phụ, mỗi loại đều đã được phát hiện trong các nghiên cứu kháng MRSA trước đây. Kỹ thuật này có thể là một bổ sung hữu ích cho kho vũ khí các công cụ phân loại phân tử dùng cho việc đặc trưng các loại clonal MRSA và nhận diện nhanh chóng các biến thể cấu trúc của yếu tố mec.

Phát hiện các loài Lactobacillus, Pediococcus, Leuconostoc , và Weissella trong phân người bằng cách sử dụng mồi PCR nhóm chuyên biệt và phương pháp điện di gel gradient biến tính Dịch bởi AI
Applied and Environmental Microbiology - Tập 67 Số 6 - Trang 2578-2585 - 2001
TÓM TẮT

Kỹ thuật điện di gel gradient biến tính (DGGE) của các đoạn DNA được tạo ra bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) với mồi chuyên biệt cho DNA ribosomal 16S được sử dụng để phát hiện vi khuẩn axit lactic (LAB) thuộc các chi Lactobacillus, Pediococcus, Leuconostoc , và Weissella trong phân người. Phân tích mẫu phân từ bốn đối tượng cho thấy hồ sơ cá nhân của các đoạn DNA không chỉ xuất phát từ các loài đã được mô tả là cư dân ruột mà còn từ các vi khuẩn đặc trưng liên quan đến thực phẩm như Lactobacillus sakei, Lactobacillus curvatus, Leuconostoc mesenteroides , và Pediococcus pentosaceus . So sánh kết quả PCR-DGGE với kết quả nuôi cấy cho thấy các loài liên quan đến thực phẩm không thể được nuôi cấy từ các mẫu phân bằng cách cấy ra môi trường Rogosa. Mặt khác, tất cả các loài vi khuẩn LAB cấy từ phân đều được phát hiện trong hồ sơ DGGE. Chúng tôi cũng phát hiện thấy sự thay đổi trong các loại vi khuẩn LAB xuất hiện trong phân người trong quá trình tiêu thụ sản phẩm sữa chứa dòng probiotic Lactobacillus rhamnosus DR20. Phân tích mẫu phân từ hai đối tượng được lấy trước, trong, và sau khi sử dụng probiotic cho thấy L. rhamnosus có thể phát hiện được bằng PCR-DGGE trong giai đoạn thử nghiệm trong phân của cả hai đối tượng, trong khi nó chỉ có thể phát hiện được bằng nuôi cấy ở một đối tượng duy nhất.

#Lactobacillus #Pediococcus #Leuconostoc #Weissella #điện di gel #mồi PCR chuyên biệt #vi khuẩn axit lactic #probiotic #tác dụng của thức ăn #phân tích DNA #môi trường Rogosa.
Phương Pháp Thử Nghiệm Multiplex PCR Để Phát Hiện Đồng Thời Chín Gene Kháng Kháng Sinh Liên Quan Lâm Sàng TrongStaphylococcus aureus Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 41 Số 9 - Trang 4089-4094 - 2003
TÓM TẮT

Trong nghiên cứu này, chúng tôi mô tả một phương pháp thử nghiệm multiplex PCR để phát hiện chín gene kháng kháng sinh có liên quan lâm sàng củaStaphylococcus aureus. Các điều kiện đã được tối ưu hóa để khuếch đại các đoạn củamecA (mã hóa khả năng kháng methicillin),aacA-aphD (kháng aminoglycoside),tetK,tetM (kháng tetracycline),erm (A),erm (C) (kháng macrolide-lincosamide-streptogramin B),vat (A),vat (B), vàvat (C) (kháng streptogramin A) đồng thời trong một lần khuếch đại PCR. Một cặp mồi bổ sung để khuếch đại một đoạn của 16S rDNA của vi khuẩn tụ cầu đã được đưa vào như một đối chứng dương tính. Phương pháp multiplex PCR đã được đánh giá trên 30 chủng khác nhau củaS. aureus, và các kết quả PCR tương quan với dữ liệu kháng kháng sinh kiểu hình thu được từ phương pháp pha loãng vi sinh trong môi trường. Phương pháp multiplex PCR cung cấp một phương pháp nhận diện nhanh chóng, đơn giản và chính xác về các mẫu kháng kháng sinh và có thể được sử dụng trong chẩn đoán lâm sàng cũng như để giám sát sự lây lan của các yếu tố xác định kháng kháng sinh trong các nghiên cứu dịch tễ học.

Định lượng Enterococci và Adenovirus ở Người trong Các Mẫu Môi Trường Bằng Phương Pháp PCR Thời Gian Thực Dịch bởi AI
Applied and Environmental Microbiology - Tập 71 Số 5 - Trang 2250-2255 - 2005
TÓM TẮT

Vi khuẩn gây bệnh và virus ruột có thể được đưa vào môi trường thông qua việc xả thải của con người. Cần thiết phải có các phương pháp phát hiện và định lượng nhanh chóng virus ở người và vi khuẩn chỉ thị phân trong nước để ngăn ngừa sự tiếp xúc của con người với các tác nhân gây bệnh qua nước uống và các hoạt động giải trí. Bài báo này mô tả sự phát triển của hai phương pháp PCR thời gian thực để phát hiện và định lượng adenovirus ở người và Enterococci trong nước môi trường. Để định lượng Enterococci theo thời gian thực, một bộ mồi và một đầu dò nhắm vào gen rRNA 23S đã được sử dụng. Đường chuẩn được tạo ra dựa trên DNA gen của Enterococcus faecalis có tính tuyến tính qua một dãy pha loãng 7-log. Các pha loãng tuần tự của các dung dịch E. faecalis đã cho ra giới hạn phát hiện tối thiểu (LLD) là 5 CFU/phản ứng. Để phát triển PCR thời gian thực cho adenovirus, các mồi suy biến và một đầu dò Taqman nhắm vào vùng 163 bp của gen hexon adenovirus đã được thiết kế để khuếch đại đặc hiệu 14 kiểu huyết thanh khác nhau của adenovirus ở người, bao gồm kiểu huyết thanh 40 và 41 của adenovirus ruột. Đường chuẩn được tạo ra là tuyến tính qua một dãy pha loãng 5-log, và LLD là 100 PFU/phản ứng khi sử dụng các pha loãng tuần tự của các hạt adenovirus tinh khiết kiểu huyết thanh 40. Cả hai phương pháp đều đã được tối ưu hóa để áp dụng cho các mẫu môi trường. Phương pháp PCR thời gian thực cho thấy độ nhạy cao hơn trong việc phát hiện adenovirus trong các mẫu nước thải so với phương pháp đếm đốm virus và trong việc phát hiện Enterococci trong nước ven biển so với phương pháp nuôi cấy vi khuẩn. Tuy nhiên, PCR thời gian thực cho Enterococcus đã đánh giá quá cao số lượng vi khuẩn trong nước thải có clo so với phương pháp nuôi cấy vi khuẩn. Tổng thể, khả năng phát hiện nhanh chóng và định lượng Enterococci và adenovirus trong các mẫu môi trường khác nhau thông qua PCR thời gian thực đại diện cho một bước tiến đáng kể và một tiềm năng lớn cho các ứng dụng môi trường.

#Enterococcus #adenoviruses #PCR thời gian thực #mẫu môi trường #phát hiện virus
Cryptococcus neoformans Cư Ngụ Trong Phagolysosome Axit của Đại Thực Bào Người Dịch bởi AI
Infection and Immunity - Tập 67 Số 2 - Trang 885-890 - 1999
TÓM TẮT

Gần đây, chúng tôi đã chứng minh rằng các đại thực bào dẫn xuất từ bạch cầu đơn nhân (MDM) của con người, được xử lý với chloroquine hoặc amoni clorua, đã làm tăng đáng kể hoạt động kháng nấm chống lại mầm bệnh liên quan đến AIDS là Cryptococcus neoformans. Cả hai chất này đều nâng cao độ pH của lysosome, cho thấy rằng hoạt động kháng nấm tăng lên là một chức năng của việc làm kiềm hóa phagolysosome. Hơn nữa, có một mối tương quan nghịch giữa sự tăng trưởng của C. neoformans trong môi trường không có tế bào và pH. Dữ liệu này cho thấy rằng C. neoformans đã thích nghi tốt để tồn tại trong các ngăn axit. Để kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi đã thực hiện các nghiên cứu nhằm xác định pH của phagosome MDM và neutrophil ở người chứa C. neoformans. Nấm đã được dán nhãn với các dẫn xuất isothiocyanate của hai chất dò pH nhạy cảm: fluorescein và 2′,7′-difluorofluorescein (Oregon Green). Các chất dò này có pKa là 6.4 và 4.7, tương ứng, cho phép phát hiện pH nhạy bén trên một dải rộng. pH của phagosome trung bình khoảng 5 sau khi hấp thụ nấm sống hoặc nấm bị tiêu hủy do nhiệt và duy trì tương đối ổn định theo thời gian, điều này cho thấy C. neoformans không chủ động điều chỉnh pH của phagosome của nó. Việc bổ sung 10 và 100 μM chloroquine dẫn đến sự tăng pH của phagosome từ mức cơ bản 5,1 lên đến 6,5 và 7,3, tương ứng. Cuối cùng, qua miễn dịch huỳnh quang, sự đồng định vị của C. neoformans và protein màng lysosome của MDM LAMP-1 đã được chứng minh, điều này thiết lập rằng sự hợp nhất của các phagosome chứa C. neoformans với các ngăn lysosome diễn ra. Như vậy, không giống như nhiều mầm bệnh nội bào khác, C. neoformans không né tránh sự hợp nhất với ngăn lysosome của đại thực bào mà cư ngụ và sống sót trong phagolysosome axit.

#Cryptococcus neoformans #phagolysosome #chloroquine #pH #đại thực bào người #lysosome #miễn dịch huỳnh quang.
Nghiên cứu sinh thái về Streptococcus mutans, Streptococcus sobrinus và Lactobacillus spp. tại các phân vị trong mảng bám răng tiếp giáp ở trẻ em Dịch bởi AI
Caries Research - Tập 32 Số 1 - Trang 51-58 - 1998

Các nghiên cứu trước đây sử dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang (IF) đã chỉ ra rằng <i>Streptococcus mutans</i> có thể ưu tiên bám vào các phân vị cụ thể trong mảng bám kẽ răng. Nghiên cứu này nhằm mở rộng những quan sát này tới các loại Streptococcus mutans khác và Lactobacilli trong mảng bám biên nướu. Hai trăm bảy mươi mẫu mảng bám kẽ răng được lấy từ 90 răng (3 mẫu từ mỗi răng) ở 64 trẻ em; ba phân vị biên nướu liên quan đến khu vực tiếp xúc: xa khỏi (A), bên cạnh (S) và dưới (B) khu vực tiếp xúc. Các mẫu được xử lý bằng IF gián tiếp sử dụng kháng huyết thanh đa giá hiệu suất cao chống lại <i>S. mutans</i> 'c', anti-<i>S. sobrinus</i> 'd', anti-<i>L. casei</i> và anti-<i>L. acidophilus</i>. Một mối liên kết tích cực tổng thể được tìm thấy giữa <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' (p < 0.001). Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.1) được tìm thấy giữa tỷ lệ phần trăm tại mỗi phân vị cho <i>S. mutans</i> 'c': A = 39%, S = 51% và B = 70%, và cho <i>S. sobrinus</i> 'd' là 21, 33 và 49%. Streptococci mutans (MS) có xu hướng bám vào phân vị dưới khu vực tiếp xúc (B = 81%) so với phân vị A và S (48 và 62%, tương ứng). <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' được phát hiện cùng nhau tại các phân vị A = 12%, S = 22%, và B = 38%, với tỷ lệ phần trăm tại các vị trí B cao hơn các vị trí A (B > A, p < 0.01 và B > S, p < 0.05). Các loại <i>Lactobacillus</i> spp. hiếm khi bị cô lập, và thường được tìm thấy cùng với MS. Có mối quan hệ tích cực giữa sự hiện diện của Lactobacilli hoặc MS và sâu răng (chỉ tổn thương trắng), mặc dù các loài này thường có thể bị cô lập từ các vị trí không sâu răng. Sự hiện diện của cả <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' có mối tương quan mạnh mẽ với các tổn thương sâu răng sớm. Ngoài ra, nghiên cứu này còn xác nhận sự biến đổi của vi sinh vật tại các phân vị khác nhau trong mảng bám răng kẽ răng.

#Streptococcus mutans #Streptococcus sobrinus #Lactobacillus #mảng bám kẽ răng #miễn dịch huỳnh quang #sâu răng #vi sinh vật #trẻ em
Tiêu chuẩn hóa và đánh giá phản ứng CAMP cho việc xác định nhanh chóng, tạm thời Streptococcus agalactiae (nhóm B Lancefield) trong vật liệu lâm sàng Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 1 Số 2 - Trang 171-174 - 1975

Các mẫu nuôi cấy sơ cấp từ vật liệu lâm sàng đã được sàng lọc để tìm kiếm sự hiện diện của các khuẩn lạc nghi ngờ là Streptococcus agalactiae (nhóm B Lancefield). Sáu mươi ba mẫu nuôi cấy như vậy và 108 mẫu khác của liên cầu khuẩn tan huyết beta (nhóm A, C và G), được thu thập trong 3 tháng đầu của cuộc điều tra, đã được nghiên cứu thông qua phân nhóm Lancefield, thủy phân sodium hippurate và bài kiểm tra CAMP tiêu chuẩn. Tất cả liên cầu khuẩn đều được cấy vuông góc với đường cấy của Staphylococcus sản xuất độc tố beta trên đĩa thạch máu cừu và ủ khí tài trong hũ nến và kỵ khí ở 37 C. Các đĩa được kiểm tra sau 5-6 giờ và 18 giờ ủ. Sự sinh hemolysis với hình "mũi tên" đặc trưng chỉ ra một phản ứng CAMP dương tính. Tất cả liên cầu nhóm B đều cho phản ứng CAMP dương tính trong hũ nến hoặc kỵ khí, thường trong vòng 5-6 giờ, và khí tài sau 18 giờ ủ. Tất cả liên cầu nhóm A chỉ cho phản ứng dương tính trong điều kiện kỵ khí. Các nhóm C và G là âm tính dưới mọi điều kiện khí quyển. Phản ứng CAMP là một phương pháp nhanh chóng và đáng tin cậy cho việc nhận dạng sơ bộ nhóm liên cầu B khi sử dụng hũ nến trong quá trình ủ.

#Streptococcus agalactiae #Lancefield group B #CAMP test #beta-hemolytic streptococci #clinical material #sodium hippurate hydrolysis
Đánh giá cường độ chịu nén của cọc xi măng đất được chế tạo trong phòng thí nghiệm và hiện trường
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 12 Số 04 - Trang Trang 5 - Trang 9 - 2022
Cọc xi măng đất (CXMĐ) ngày càng phổ biến và được sử rộng rãi trong việc gia cố nền đất yếu, đặc biệt tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Phương pháp nén đơn trục trong phòng được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm đánh giá cường độ chịu nén của cọc xi măng đất. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng XM/Đ ít nhất từ 300 kg/m3 trở lên được xem là phù hợp với địa chất yếu tại khu vực nghiên cứu. Ngoài ra, tỷ lệ cường độ chịu nén của cọc xi măng đất ngoài hiện trường so với trong phòng thí nghiệm tại các khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng (0,32÷0,96). Điều này cho thấy phương pháp thi công CXMĐ (jet-grouting) đảm bảo chất lượng với hệ số tương quan cao hơn so với hệ số được đề nghị trong tiêu chuẩn hiện hành.
#Cọc xi măng đất #Cường độ chịu nén #Đất yếu
SO SÁNH HIỆU QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG SAU ĐỘT QUỴ CỦA CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ THẤP VỚI CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ CAO TRONG PHÁC ĐỒ CHÂM CỨU CẢI TIẾN VẬT LÝ TRỊ LIỆU – THUỐC BỔ DƯƠNG HOÀN NGŨ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Đã có nhiều công bố khoa học về hiệu quả phục hồi liệt sau đột quỵ của Châm Cứu Cải Tiến (CCCT) 1 lần/ ngày (CCCT cường độ thấp). Mục tiêu: so sánh hiệu quả phục hồi vận động và cải thiện sinh hoạt hàng ngày các bệnh nhân liệt sau đột quỵ giữa phác đồ CCCT cường độ thấp + Vật lý trị liệu (VLTL) + thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang (BDHNT) với phác đồ CCCT cường độ cao (CCCT 2 lần/ ngày) + VLTL + BDHNT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, mở, có đối chứng, phân bố ngẫu nhiên. Bệnh nhân liệt ½ người sau đột quỵ, đã qua giai đoạn cấp, đạt tiêu chuẩn chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm chứng và can thiệp. Tất cả người tham gia được theo dõi và đánh giá 3 lần (trước, sau điều trị 10 ngày và 20 ngày). Kết quả: Cải thiện ở nhóm can thiệp tốt hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Chỉ số Barthel tăng thêm 36,97 điểm so với 21,91 điểm; FMA chi trên tăng 247% so với 56,48%; FMA chi dưới tăng 97,35% so với 66,15%; test 9 lỗ tăng 26,5% so với 10,5%; đi bộ 2 phút có hỗ trợ tăng gấp 26,91 lần so với 23,45 lần sau 20 ngày điều trị. Kết luận: CCCT cường độ cao trong 20 ngày (trong phác đồ phối hợp với tập vận động và thuốc YHCT) có hiệu quả cải thiện phục hồi vận động và cải thiện hoạt động trong sinh hoạt thường ngày tốt hơn CCCT cường độ thấp.
#Châm cứu cải tiến-CCCT #chỉ số Barthel #FMA #test 9 lỗ #test đi bộ 2 phút #liệt ½ người sau đột quỵ
QUAN ĐIỂM VÀ THÓI QUEN SỬ DỤNG SẢN PHẨM TỪ DỪA CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THỜI KỲ DỊCH BỆNH COVID-19
Sản phẩm nước dừa đóng hộp là một trong những sản phẩm từ dừa đứng đầu trong các sản phẩm từ dừa. Thị phần sản phẩm dừa đóng lon/hộp hơn nhiều hơn sản lượng tiêu thụ nội địa. Trong tình hình dịch bệnh COVID-19, sản lượng xuất khẩu bị giảm và việc nghiên cứu những dòng sản phẩm từ dừa nước cho thị trường nội địa vốn quen thuộc với việc sử dụng dừa tươi; cũng như làm nguyên liệu cho các dạng thức uống từ dừa là cần thiết. Trong nghiên cứu này tiến hành thu thập dữ liệu trên 247 người tiêu dùng (50 nam và 197 nữ) được khảo sát trực tuyến trên hệ thống surveymonky. Dữ liệu câu hỏi gồm 2 phần nội dung chính: (1) xác định những quan điểm của người tiêu dùng liên quan đến “dừa” và (2) thói quen sử dụng dừa: thói quen sử dụng một số sản phẩm từ dừa, đặc biệt là sản phẩm nước dừa và các thông tin về nhân khẩu học người: quê quán, độ tuổi, giới tính. Các kết quả chính chỉ ra rằng 80% các khái niệm về dừa gắn liền với các sản phẩm từ dừa (63%) và 17 % tính chất của sản phẩm dừa (vị ngọt, vị béo…) và 20% còn lại gắn với địa danh, công dụng sản phẩm. Trong các nhóm sản phẩm từ dừa thì các sản phẩm từ “dừa” gắn liền với tần số sử dụng và hình thức sử dụng; tính chất vị và cấu trúc được người tiêu dùng quan tâm hơn. Các ý tưởng sử dụng dừa như nguyên liệu tạo các sản phẩm khác được người tiêu dùng đánh giá cao. Nghiên cứu này có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay đối với dòng sản phẩm công nghiệp thực phẩm chế biến có thể làm nguyên liệu đầu vào cho các dạng thức uống pha chế theo định hướng người tiêu dùng và cơ hội phát triển các dòng sản phẩm từ dừa hướng vào thị trường nội địa tiềm năng.
#Vietnamese #consumer #coconut water #COVID-19 pandemic #domestic market
Tổng số: 49   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5