Áp suất là gì? Các công bố khoa học về Áp suất

Áp suất là lực tác động của một vật lên một diện tích đơn vị. Đơn vị đo áp suất trong Hệ đo lường quốc tế (SI) là pascal (Pa), tương đương với một newton trên m...

Áp suất là lực tác động của một vật lên một diện tích đơn vị. Đơn vị đo áp suất trong Hệ đo lường quốc tế (SI) là pascal (Pa), tương đương với một newton trên một mét vuông. Áp suất cũng có thể được đo bằng các đơn vị khác như bar, psi, hay atm. Áp suất được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như vật lý, hóa học, kỹ thuật cơ khí, y học, và nhiều lĩnh vực khác.
Áp suất có thể được tính bằng công thức: P = F/A, trong đó P là áp suất, F là lực tác động và A là diện tích. Áp suất cũng có thể được mô tả bằng các khái niệm như áp suất khí quyển (độ cao), áp suất thủy lực (do chất lỏng), áp suất khí (do hơi nước), và áp suất tĩnh (trong chất rắn).

Áp suất cũng đóng vai trò quan trọng trong nhiều thiết bị và quy trình công nghiệp, như trong hệ thống điều hòa không khí, hệ thống thủy lực, và các quá trình chế biến thực phẩm và hóa chất. Áp suất cũng là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu về động học chất lỏng và khí, và trong nghiên cứu vật liệu. Áp suất cũng có ý nghĩa to lớn trong y học, với việc đo và quản lý áp suất trong cơ thể con người là một yếu tố quan trọng trong quá trình điều trị bệnh tật.
Có một số đơn vị đo áp suất phổ biến khác ngoài pascal, trong đó một số đơn vị quan trọng gồm:

- Bar: 1 bar tương đương với 100 000 pascal.
- Atmosphere (atm): 1 atm tương đương với áp suất ở mực nước biển, khoảng 101 325 pascal.
- Millimeters of Mercury (mmHg): Một đơn vị phổ biến trong y học, tương đương với áp suất khi một cột thủy tinh cao 1mm.

Ngoài ra, trong hệ thống quốc tế, người ta cũng sử dụng đơn vị psi (pound per square inch) để đo áp suất, đặc biệt trong ngành công nghiệp và hàng không.

Áp suất quan trọng trong việc đo và kiểm soát các quá trình công nghiệp, và cũng là một yếu tố quan trọng trong thiết kế và sản xuất các thiết bị từ đơn giản như bình xịt nước cho đến máy nén khí phức tạp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "áp suất":

TẬP BẢN ĐỒ XÁC SUẤT NGUY HIỂM ĐỘNG ĐẤT VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG
Bài báo này trình bày phiên bản mới nhất của tập bản đồ xác suất nguy hiểm động đất lãnh thổ Việt Nam và khu vực Biển Đông. Danh mục động đất cập nhật tới năm 2014 và các thông tin mới được công bố gần đây nhất về địa chấn kiến tạo và địa động lực khu vực Đông Nam Á được sử dụng để xác định ranh giới của 37 vùng nguồn chấn động trên lãnh thổ Việt Nam và khu vực Biển Đông giới hạn bởi kinh tuyến 1250 Đông. Mô hình tắt dần chấn động của Toro và cộng sự (1997) được áp dụng cho các vùng nguồn chấn động trên lãnh thổ và thềm lục địa Việt Nam, trong khi mô hình tắt dần chấn động xây dựng cho các đới hút chìm của Youngs, Chiou, Silva và Humphrey (1997) được áp dụng cho vùng nguồn máng biển sâu Manila. Các bản đồ nguy hiểm động đất biểu thị phân bố không gian của giá trị trung vị của gia tốc cực đại nền (PGA) với các xác suất bị vượt quá lần lượt bằng 10%, 5%, 2% và 0,5% trong vòng 50 năm. Các khu vực có độ nguy hiểm cao nhất bao gồm 1) vùng Tây Bắc Việt Nam, nơi có các vùng nguồn chấn động Điện Biên - Lai Châu và Sơn La, có giá trị PGA cực đại đạt tới 180 g và 272 g tương ứng với các chu kỳ thời gian từ 475 năm và 9975 năm; và 2) ngoài khơi Nam Trung Bộ, nơi có các vùng nguồn chấn động kinh tuyến 1090 và Cửu Long - Côn Sơn, có giá trị PGA cực đại đạt tới 118 g và 285 g tương ứng với các chu kỳ thời gian từ 475 năm và 9975 năm. Tập bản đồ xác suất nguy hiểm động đất cung cấp những thông tin dự báo định lượng ngắn hạn, trung bình và dài hạn về độ nguy hiểm động đất trên lãnh thổ Việt Nam và khu vực Biển Đông và có thể được sử dụng trong thiết kế kháng chấn và nhiều ứng dụng địa chấn công trình.
#Probabilistic seismic hazard maps #peak ground acceleration #seismic source zones #ground motion prediction equation.
Đa dạng hóa và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của đa dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa tài sản đến rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam dùng dữ liệu từ 24 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2006-2015 áp dụng mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Kết quả cho thấy đa dạng hóa thu nhập có ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng, đa dạng hóa càng tăng càng góp phần làm gia tăng rủi ro ngân hàng. Đồng thời, khi rủi ro ngân hàng được đo lường bởi biến động tỷ suất sinh lợi trên vốn của (SDROE) và biến động tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (SDROA) thì đa dạng hóa thu nhập không có bằng chứng ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng. Bên cạnh đó, đa dạng hóa tài sản không có ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng. Ngoài ra, một số yếu tố khác như tỷ lệ cho vay ngân hàng, quy mô ngân hàng và chi phí hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng (rủi ro được đo lường bởi SDROE), nói cách khác tỷ lệ cho vay ngân hàng càng cao, quy mô ngân hàng càng lớn và chi phí hoạt động ngân hàng càng tăng càng làm gia tăng sự biến động của tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
#Đa dạng hóa thu nhập #ngân hàng thương mại #rủi ro ngân hàng #tỷ suất sinh lợi #SDROE #SDROA
Application of electrical imaging and multichannel analysis of surface waves methods to survey the structure foundation at the Districts 2 and 9 of Ho Chi Minh City
In geophysics, multichannel analysis of surface waves (MASW) is employed to survey the stiffness of soil environment by the values of shear wave velocity (VS), while 2D electrical imaging method is utilized to examine the conductivity of soil environment by the values of resitivity (). In this study presented the results of 1D VS from MASW and 2D section from electrical imaging method to study the soil environment of structure foundation at districts 2 and 9 in Ho Chi Minh city were presented. The results of stratification of geology at two areas obtained from above two approaches were similar. The obtained results revealed that the geology between district 2 and 9 were quite different. For the area at the district 2, from the surface to the depth of 20 m, the resistivity and the shear wave velocity increased 10–50 m and 50–300 m/s, respectively. Moreover, the thick silty layer with the thickness of 1718 m and the small values of resistivity and VS were also detected in this site. For the area at the district 9, the geological foundation was stiffer than the one of the district 2. Concretely, from the surface to the depth of more than 30 m, the resistivity and the shear wave velocity increased from 10300 m and 200450 m/s, respectively. The geological foundation was found to be most of clays. In addition, the silty clay layer at several sites along the survey line was observed, while the stiff sandy clay layer was recognized at the depth of 27 m.
#phương pháp phân tích sóng mặt đa kênh #phương pháp ảnh điện 2D #vận tốc truyền sóng ngang #điện trở suất
Nghiên cứu sử dụng nước thải biogas trồng bắp (Zea mays L.)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 53 - Trang 53-64 - 2017
“Nghiên cứu sử dụng nước thải biogas trồng bắp (Zea mays L.)” được thực hiện nhằm tận dụng dinh dưỡng của nước thải biogas như phân hữu cơ dạng lỏng thay thế phân hóa học góp phần giảm lượng nước tưới, hạn chế lượng nước thải biogas xả trực tiếp ra thủy vực tiếp nhận và giảm chi phí trong canh tác bắp. Thí nghiệm trong chậu gồm 4 nghiệm thức: phân hóa học, nước thải biogas tỷ lệ 100%, 75% và 50% nhằm chọn tỷ lệ nước thải biogas hợp lý cho thí nghiệm ngoài đồng. Thí nghiệm ngoài đồng được bố trí với 3 nghiệm thức: phân hóa học (đối chứng), nước thải biogas hàm lượng đạm 75%, và nước thải biogas hàm lượng đạm 50%. Kết quả cho thấy chiều cao cây, chiều dài trái bắp, đường kính trái bắp, khối lượng trái, số hàng trên trái, số hạt trên trái và năng suất cây bắp ở nghiệm thức nước thải biogas hàm lượng đạm 75% khác biệt không có ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng. Sử dụng nước thải biogas trồng bắp giúp giảm 35 L/m2 nước thải biogas với hàm lượng đạm 75% thải ra môi trường, tận dụng 18,7 g/m2 đạm, 4,47 g/m2 lân và 6,42 g/m2 kali, giảm chi phí phân bón hóa học 1.147 VNĐ/m2 và chi phí thuốc bảo vệ thực vật 500 VNĐ/m2. Đề tài khuyến khích nông hộ có mô hình khí sinh học sử dụng nước thải biogas thay thế phân hóa học canh tác cây bắp.
#bắp #đạm #năng suất #nước thải biogas #phân hóa học #sinh trưởng
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp công nghệ và kỹ thuật nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ Kỳ II: Đánh giá hiệu quả của giải pháp duy trì áp suất vỉa, thực trạng khai thác của từng khu vực, tồn tại và nguyên nhân
Tạp chí Dầu khí - Tập 7 - Trang 18-34 - 2018
Trữ lượng dầu tầng móng Bạch Hổ thuộc nhóm cực lớn. Sau hơn 30 năm khai thác, đến nay trữ lượng thu hồi còn lại có khả năng khai thác của mỏ Bạch Hổ đang tồn tại trong: (i) các khe nứt, hang hốc chưa khai thác ở phần nóc của thân dầu; (ii) hệ thống khe nứt lớn (macro) thuộc phần giữa của thân dầu (dầu dư bão hòa - saturated oil residues chưa quét đẩy hết); (iii) đới vi nứt nẻ và nứt nẻ 1 chiều không liên thông; (iv) phần nóc móng nhô cao mà trước đây chưa xác định được và chưa mở vỉa; (v) những thể tích còn sót do chưa xác định chính xác đới nứt nẻ hoặc quỹ đạo khoan chưa đến được. Bơm ép nước cho đến nay là giải pháp hiệu quả nhất góp phần quan trọng tăng lưu lượng các giếng, ổn định tỷ số khí - dầu, nâng cao hệ số thu hồi dầu và đặc biệt là ổn định sản lượng dầu khai thác khối Trung tâm tầng móng Bạch Hổ. Tuy nhiên, bơm ép nước chỉ hiệu quả ở các khu vực kiến tạo dập vỡ mạnh, các đới nứt nẻ liên thông tốt, độ thấm tốt và sẽ không hiệu quả ở các khu vực mà cường độ hoạt động kiến tạo yếu, hoặc do thành phần thạch học mà mức độ dập vỡ đất đá thấp, các khe nứt ít liên thông, độ thấm kém. Bơm ép nước duy trì áp lực vỉa trên áp suất bão hòa cũng không phải hiệu quả ở tất cả các giai đoạn khai thác, đặc biệt đối với giai đoạn cuối cần điều chỉnh theo hướng giảm. Thách thức lớn nhất ở mỏ Bạch Hổ hiện nay là: độ ngập nước tăng nhanh kể cả các giếng chủ lực; ranh giới dầu - nước ở khối Trung tâm chỉ còn cách nóc móng xung quanh 100m, có nơi chỉ còn cách nóc móng 18m; hệ số thu hồi dầu của 2 khối Nam và Đông Bắc rất thấp, tương ứng là 1,9% và 1,3%; khai thác và nâng cao hệ số thu hồi dầu tầng móng từ các đới vi nứt nẻ vô cùng khó khăn. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích cấu trúc địa chất và kiến tạo của mỏ Bạch Hổ, thành phần thạch học và tính chất đá chứa, tính chất dầu vỉa, trữ lượng tầng móng, từ đó đánh giá thực trạng khai thác, đề xuất các giải pháp công nghệ, kỹ thuật cụ thể cho từng khu vực và đối tượng nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu giai đoạn cuối đối tượng móng mỏ Bạch Hổ. Trong Kỳ II, tác giả tập trung đánh giá hiệu quả của các giải pháp duy trì áp suất vỉa, thực trạng khai thác của từng khu vực và so sánh với Sơ đồ công nghệ, trong đó phân tích cụ thể các tồn tại và nguyên nhân. Trong phần này, tác giả đã sử dụng các tài liệu thực tế khai thác dầu tầng móng mỏ Bạch Hổ từ nguồn của Vietsovpetro.
#Improvement of oil recovery factor #geological structure #basement #reservoir pressure #Central dome #Northeast dome #Southern dome #North dome #Bach Ho field
Phân tích xác suất nứt do nhiệt của kết cấu trụ cầu trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng bằng mô phỏng số
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 01 - Trang Trang 82 - Trang 87 - 2023
Bài báo trình bày kết quả phân tích xác suất nứt do nhiệt nhiệt trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng được xác định bằng mô phỏng số của kết cấu BTCT khối lớn dạng trụ cầu. Nội dung nghiên cứu có đề cập tới mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố tới xác suất nứt do nhiệt này theo phương pháp trên. Kết quả phân tích có thể được sử dụng để dự đoán xác suất nứt do nhiệt phục vụ thiết kế phương án thi công và bảo dưỡng bê tông phù hợp nhằm kiểm soát hiện tượng nứt của kết cấu bê tông cốt thép dạng trụ cầu.
#Bê tông cốt thép khối lớn #Nhiệt thủy hóa xi măng #Xác suất nứt do nhiệ #Phương pháp mô phỏng số
Ảnh hưởng của oligome dầu lanh epoxy hóa (OELO) đến tính chất cơ học của polyme epoxy. Phần 1. Ảnh hưởng của OELO đến tính chất cơ lý của màng và hệ số tập trung ứng suất tới hạn KIC của epoxy epikote 828
Vietnam Journal of Chemistry - Tập 52 Số 1 - 2014
Epoxy resins are considered as one of the most important classes of thermosetting polymers for many industrial applications, but unfortunately they are characterized by a relatively low toughness. In this work, oligomer of epoxidized linseed oil (OELO) was used as a modifier for epoxy polymer. Different contents of OELO are evaluated for effecting on the most of mechanical properties of the epoxy resin. The fracture toughness of epoxy resin significantly increased by 64.4 % from 1.46 MPa.m1/2 to 2.40 MPa.m1/2 just by adding 6 phr (part per hundred of resin) OELO. Impact strength, cupping and scratch properties of polymer films significantly increased 96.4 %, 115 % and 260 %, respectively with content 10 phr OELO in compositions. Keywords: Fracture toughness, epoxy resin, cyanethyldiethylenetriamine, epikote 828, epoxidized linseed oil.
Phát triển phần mềm phân tích trạng thái ứng suất xung quanh thành giếng khoan trong ứng dụng bài toán địa cơ học
Tạp chí Dầu khí - Tập 4 - Trang 24 - 36 - 2017
Bài báo giới thiệu kết quả phân tích trạng thái ứng suất thay đổi khi có hoạt động khoan qua thành hệ trên cơ sở dữ liệu giả định và phân tích một số hiệu ứng ảnh hưởng của thông số đầu vào tới kết quả phân tích. Từ cơ sở lý thuyết và phương trình nghiệm giải tích về trạng thái ứng suất với tên gọi “phương trình Kirsch” cho trường hợp giếng khoan tiết diện tròn trong môi trường đất đá giả thiết là vật liệu rỗng đàn hồi, tuyến tính và đồng nhất, nhóm tác giả đã xây dựng chương trình tính toán W3IPVU dựa trên ngôn ngữ lập trình chuyên dụng (mã nguồn mở, chạy trên hệ Linux) cho phép phân tích sự thay đổi trạng thái ứng suất với quỹ đạo giếng khoan bất kỳ. Đối tượng vỉa áp dụng cho chương trình tuân theo giả thiết của Kirsch. Kết quả nghiên cứu ban đầu được nhóm tác giả giới thiệu trong bài báo này cho thấy sự thay đổi của trạng thái ứng suất trong quá trình khoan, đặc biệt phụ thuộc rất lớn vào hướng khoan. Ứng suất tiếp tuyến có thể tăng do tác động khoan và phụ thuộc vào đường kính giếng khoan.
#Geomechanics #stress state #wellbore stability
Sử dụng tài liệu địa chấn và giếng khoan để dự báo áp suất thành hệ trước khi khoan: Nghiên cứu cụ thể tại một số giếng khoan bể Cửu Long và bể Sông Hồng
Tạp chí Dầu khí - Tập 8 - Trang 05 - 12 - 2022
Áp suất lỗ rỗng có thể thu được từ vận tốc khoảng của địa chấn bằng kỹ thuật biến đổi vận tốc thành áp suất lỗ rỗng. Trong bài báo này, nhóm tác giả trình bày phương pháp thực nghiệm Eaton để tính toán áp suất thành hệ cho một số giếng khoan ở bể Cửu Long và bể Sông Hồng, nơi trải qua quá trình sụt lún, chôn vùi, biến đổi địa chất và hoạt động địa nhiệt phức tạp, gây ra các đới dị thường áp suất.Kết quả thu được cho thấy áp suất lỗ rỗng được tính toán dựa vào tài liệu vận tốc khoảng của địa chấn có sự tương quan với giá trị áp suất được đo bằng các phương pháp địa vật lý giếng khoan và tỷ trọng dung dịch sử dụng trong khi khoan. Do đó, việc sử dụng vận tốc khoảng của địa chấn để tính toán giá trị áp suất lỗ rỗng, xác định và dự đoán đới dị thường bằng phương pháp Eaton có thể được áp dụng hiệu quả tại các khu vực chưa có giếng khoan để nâng cao độ an toàn, giảm thiểu rủi ro cho quá trình thi công khoan.
#Abnormal pressure #Eaton method #Cuu Long basin #Song Hong basin
Giải pháp đo áp suất màng dầu ổ đầu to thanh truyền trong thiết bị thực nghiệm
Bài báo giới thiệu một phương pháp đo áp suất màng dầu bôi trơn ổ đầu to thanh truyền trong thiết bị thực nghiệm. Thanh truyền được chế tạo bằng vật liệu quang đàn hồi và chịu tải mô phỏng như trong động cơ. Một cảm biến áp suất XCQ-062 BARA được lắp trên một bạc và tại tiết diện giữa theo phương chiều dài. Bạc này được lắp với trục khuỷu và quay cùng trục khuỷu. Bạc và trục khuỷu tạo thành trục của ổ đầu to thanh truyền. Bạc mang cảm biến có thể xoay từng góc 15 độ để đo áp suất màng dầu tại 24 vị trí khác nhau của chu vi ổ và theo góc quay của trục khuỷu. Một đĩa lỗ gồm 24 lỗ để xác định chính xác các vị của cảm biến. Kết quả thực nghiệm đo cho thấy, áp suất màng dầu tương thích với sơ đồ tải.
#thanh truyền #áp suất màng dầu #cảm biến áp suất
Tổng số: 253   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10