British Journal of Educational Technology
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Các phương pháp học trực tuyến linh hoạt đang thu hút sự quan tâm trở lại một phần do khả năng của chúng trong việc giải quyết những cơ hội và quan ngại mới nổi trong giáo dục đại học. Quan trọng là, các phương pháp học trực tuyến linh hoạt được cho là mang tính dân chủ và giải phóng, mở rộng quyền truy cập vào giáo dục đại học và cho phép người học tham gia vào các hoạt động giáo dục "bất cứ lúc nào" từ "bất cứ nơi đâu." Trong bài viết này, chúng tôi phê phán những câu chuyện như vậy bằng cách chỉ ra rằng tính linh hoạt không phải là phổ quát hay trung lập. Bằng cách sử dụng lý thuyết phê phán, chúng tôi chứng minh rằng tính linh hoạt giả định các người học tự chủ tưởng tượng, những người độc lập và cá nhân chủ nghĩa. Thông qua các ví dụ liên quan, chúng tôi cho thấy cách nhìn nhận như vậy về tính linh hoạt là áp bức, và lập luận rằng một hiểu biết về tính linh hoạt có tính bối cảnh, tương đối và quan hệ có thể thực sự giải phóng hơn. Một cách tiếp cận như vậy về tính linh hoạt, chẳng hạn, có thể liên quan đến những nỗ lực bối cảnh và quan hệ để làm mềm các chương trình giảng dạy được quy định trong các khóa học hoặc chương trình học.
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên khám phá một cách có hệ thống mức độ mà các ứng dụng dành cho trẻ em từ 0-5 tuổi thúc đẩy chơi và sự sáng tạo. Có nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em đang sử dụng máy tính bảng, nhưng còn hạn chế kiến thức về việc sử dụng các ứng dụng bởi trẻ em trong độ tuổi này. Nghiên cứu được tài trợ bởi ESRC đã tiến hành nghiên cứu để xác định cách mà trẻ em ở Vương quốc Anh từ 0 đến 5 tuổi sử dụng ứng dụng, và mức độ sử dụng ứng dụng thúc đẩy chơi và sự sáng tạo, với sự quan trọng của những yếu tố này cho việc học tập và phát triển. Một cuộc khảo sát đã được thực hiện với 2000 phụ huynh có con dưới 5 tuổi ở Vương quốc Anh, sử dụng mẫu ngẫu nhiên có phân tầng, và thực hiện các nghiên cứu tình huống dân tộc học về trẻ em trong sáu gia đình. Hơn 17 giờ video ghi hình trẻ em sử dụng ứng dụng đã được phân tích. Các phát hiện chỉ ra rằng trẻ em trong độ tuổi này đang sử dụng nhiều loại ứng dụng, một số trong số đó không dành cho độ tuổi của chúng. Các đặc điểm thiết kế của các ứng dụng như vậy có thể dẫn đến việc hỗ trợ hoặc cản trở chơi và sự sáng tạo. Nghiên cứu này mang đến một đóng góp nguyên bản cho lĩnh vực vì nó cung cấp một cái nhìn về cách mà các ứng dụng đóng góp vào sự chơi và sáng tạo của trẻ em từ năm tuổi trở xuống.
Mục đích của bài báo này là so sánh và đối chiếu các đặc điểm về việc sử dụng và áp dụng học tập di động trong giáo dục đại học ở các quốc gia phát triển và đang phát triển. Một nghiên cứu trường hợp so sánh dựa trên bảng khảo sát đã được tiến hành với 189 sinh viên (cử nhân và sau đại học) từ Đại học Makerere tại Uganda và Đại học Adelaide tại Úc. Lý thuyết thống nhất về sự chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) đã được sử dụng làm khung lý thuyết. Kết quả cho thấy sinh viên giáo dục đại học ở các quốc gia phát triển và đang phát triển sử dụng một loạt các công nghệ để học tập, với những khác biệt lớn giữa Uganda và Úc. Nghiên cứu kết luận rằng học tập di động trong giáo dục đại học tại các ngữ cảnh của các quốc gia phát triển và đang phát triển vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, với sinh viên sử dụng thiết bị di động theo những cách hạn chế về mặt sư phạm.
Cảnh quan công nghệ đang phát triển trong kỷ nguyên số có ảnh hưởng quan trọng đến việc học suốt đời và nhu cầu về kỹ năng giải quyết vấn đề. Trong bài báo này, chúng tôi xác định mối liên hệ giữa học chính thức, không chính thức và không quy chuẩn với những kỹ năng giải quyết vấn đề đầy đủ trong các môi trường giàu công nghệ (TRE). Chúng tôi tập trung vào kỹ năng giải quyết vấn đề của người lớn trong TRE như một cách tiếp cận mới để nghiên cứu học chính thức, không chính thức và không quy chuẩn dựa trên dữ liệu từ Chương trình Đánh giá Quốc tế về Năng lực Người trưởng thành. Chương trình này đã đo lường khả năng giải quyết vấn đề của những người trưởng thành trong độ tuổi từ 16 đến 64 ở TRE. Quy mô mẫu tổng thể là 61.654 cá nhân từ 13 quốc gia châu Âu. Kết quả của chúng tôi chỉ ra rõ ràng rằng trình độ kỹ năng của hơn 50% người lớn ở độ tuổi từ 16 đến 64 dường như không đủ để đối phó hiệu quả trong TRE. Những phát hiện gợi ý rằng sinh thái học học tập của người lớn là sự kết hợp giữa các hoạt động học chính thức, không chính thức và không quy chuẩn. Mức độ tổng thể của kỹ năng giải quyết vấn đề trong TRE cao hơn ở những cá nhân cho biết họ đã tham gia vào các hoạt động học chính thức hoặc không chính thức, so với những người không tham gia. Tuy nhiên, điều thú vị là mối liên hệ giữa học chính thức và kỹ năng giải quyết vấn đề trong TRE không phải là lớn. Ngược lại, kết quả của chúng tôi chỉ ra rõ ràng rằng học không chính thức dường như có mối liên hệ mạnh với những kỹ năng giải quyết vấn đề đầy đủ trong TRE. Trong thực tế, chúng tôi chỉ ra những hoạt động học chính thức, không chính thức và không quy chuẩn mà người lớn thực hiện khi áp dụng các kỹ năng trong TRE. Bằng cách nhận ra những hoạt động mà những người giải quyết vấn đề đầy đủ thực hiện, chúng tôi có thể thúc đẩy kỹ năng học tập suốt đời. Các phát hiện của chúng tôi cũng có thể được sử dụng như một điểm khởi đầu cho các nghiên cứu trong tương lai về việc học suốt đời.
Nghiên cứu liên ngành này khảo sát mối liên hệ giữa Việc Học Tiếng Anh Không Chính Thức Qua Kỹ Thuật Số (
Facebook là một trang mạng xã hội phổ biến. Giống như nhiều công nghệ mới khác, nó có tiềm năng cho việc giảng dạy và học tập nhờ vào các chức năng tích hợp độc đáo mà nó cung cấp, mang lại những khả năng sư phạm, xã hội và công nghệ. Trong nghiên cứu này, nhóm Facebook được sử dụng như một hệ thống quản lý học tập (LMS) trong hai khóa học để đăng thông báo, chia sẻ tài nguyên, tổ chức các buổi hướng dẫn hàng tuần và tiến hành thảo luận trực tuyến tại một viện đào tạo giáo viên ở Singapore. Nghiên cứu này khám phá việc sử dụng nhóm Facebook như một LMS và cảm nhận của sinh viên về việc sử dụng nó trong các khóa học của họ. Kết quả cho thấy sinh viên chủ yếu hài lòng với những khả năng của Facebook bởi vì các chức năng cơ bản của một LMS có thể được triển khai dễ dàng trong nhóm Facebook. Tuy nhiên, việc sử dụng nhóm Facebook như một LMS cũng có những hạn chế nhất định. Nó không hỗ trợ việc tải lên các định dạng tệp khác trực tiếp, và các thảo luận không được tổ chức theo cấu trúc có chuỗi. Hơn nữa, sinh viên không cảm thấy an toàn và thoải mái vì quyền riêng tư của họ có thể bị lộ. Các hạn chế trong việc sử dụng nhóm Facebook như một LMS, các ứng dụng thực tiễn và các giới hạn của nghiên cứu này sẽ được thảo luận.
Những điều đã được biết đến về chủ đề này
Facebook đã được sử dụng phổ biến bởi sinh viên đại học, nhưng nhiều sinh viên không muốn thầy cô trở thành bạn bè trên Facebook Sự tự công khai của giáo viên trên Facebook có thể thúc đẩy bầu không khí lớp học, uy tín của giáo viên và mối quan hệ sinh viên – giáo viên Các hệ thống quản lý học tập thương mại (LMS) có những hạn chế
Điều mà bài báo này cung cấp
Nhóm Facebook có thể được sử dụng như một LMS vì nó có những khả năng sư phạm, xã hội và công nghệ nhất định Sinh viên hài lòng với cách sử dụng nhóm Facebook như một LMS Sinh viên trẻ có tâm lý chấp nhận tốt hơn với ý tưởng sử dụng nhóm Facebook như một LMS Sử dụng nhóm Facebook như một LMS có những hạn chế: nó không hỗ trợ việc tải lên các tệp định dạng khác; các thảo luận không được liệt kê theo chuỗi; và nó không được coi là môi trường an toàn
Ý nghĩa cho thực hành và/hoặc chính sách
Nhóm Facebook có thể được sử dụng như một thay thế hoặc bổ sung cho LMS Các ứng dụng bên thứ ba là cần thiết để mở rộng khả năng của nhóm Facebook như một LMS Sử dụng Facebook có vẻ phù hợp hơn với người học trẻ tuổi so với người lớn Giáo viên không nhất thiết phải là bạn bè với sinh viên trên Facebook.
Có rất nhiều sự phấn khích liên quan đến sự xuất hiện của huy hiệu số trong giáo dục. Bài báo này nhằm xác định liệu huy hiệu số có thực sự xứng đáng với sự phấn khích này hay không thông qua một cuộc xem xét hệ thống 23 nghiên cứu thực nghiệm. Một loạt các câu hỏi nghiên cứu đánh giá đã được hình thành để hướng dẫn phân tích tài liệu nghiên cứu cùng với tiêu chí lựa chọn để khám phá những nghiên cứu liên quan. Phân tích về khối lượng công việc này gợi ý rằng huy hiệu số có thể cải thiện sự tham gia và động lực của sinh viên. Tuy nhiên, phát hiện này không phổ quát khi một số nghiên cứu xác định không có lợi ích và những nghiên cứu khác báo cáo kết quả tiêu cực. Rõ ràng rằng cần phải có thêm nghiên cứu, đặc biệt là trong các ngữ cảnh ngành nghề đa dạng hơn.
Những gì đã được biết đến về chủ đề.
Có rất nhiều sự phấn khích về những lợi ích mà huy hiệu số mang lại khi được đưa vào môi trường học tập. Nhiều tài liệu hiện có cung cấp nền tảng lý thuyết, nguyên tắc và gợi ý thực tiễn tốt cũng như các hướng dẫn tổng quát về việc sử dụng huy hiệu số trong giáo dục. Các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng huy hiệu số còn hạn chế. Điều bài báo này bổ sung.
Hầu hết các nghiên cứu đều ủng hộ quan điểm rằng huy hiệu số có ảnh hưởng tích cực đến việc học bằng cách khuyến khích sự tham gia và hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, không có sự đồng thuận khi một số nghiên cứu báo cáo không có sự thay đổi trong khi những nghiên cứu khác nhấn mạnh những ảnh hưởng tiêu cực. Có sự tập trung vào các lĩnh vực STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) và nhân văn & khoa học xã hội trong các nghiên cứu cho thấy rằng cần có nghiên cứu rộng hơn để xác định tính khả dụng rộng rãi của các kết quả. Các tác động tích cực được xác định xuyên suốt các nghiên cứu như cải thiện: Sự tham gia của sinh viên, Nhận diện và Tính chuyển giao kỹ năng, Học tập cá nhân hóa, Nâng cao quyền hạn cá nhân, và các hoạt động cũng như tiến bộ liên quan đến công việc. Ý nghĩa thực tiễn và/hoặc chính sách
Tài liệu đã chỉ ra rằng huy hiệu số có thể tác động tích cực đến sự tham gia và động lực của người học; tuy nhiên, những kết quả tích cực này không phải là phổ quát và cần có thêm nghiên cứu. Thiếu sự đồng thuận liên quan đến lợi ích giáo dục nhấn mạnh nhu cầu cần thiết phải triển khai huy hiệu số phải được lập kế hoạch tốt và phù hợp với chiến lược học tập và giảng dạy của thực hành. Cần có thêm nghiên cứu trên một phổ ngành giáo dục rộng hơn để xác định liệu tính phù hợp của huy hiệu số có thuộc về các lĩnh vực đa ngành hay chỉ tập trung vào các ngữ cảnh giáo dục ngách như STEM.
Để cung cấp những cơ hội học tập tại nơi làm việc được tùy chỉnh, một hệ thống huy hiệu số đã được thiết kế bởi một trường đại học, cơ quan chính phủ và hiệp hội nghề nghiệp quốc gia nhằm hỗ trợ giáo viên triển khai phát triển nghề nghiệp (
- 1
- 2
- 3
- 4