Australian Journal of Management

SSCI-ISI SCOPUS (1976-2023)

  1327-2020

  0312-8962

  Anh Quốc

Cơ quản chủ quản:  SAGE Publications Ltd

Lĩnh vực:
Business, Management and Accounting (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Lý thuyết Quản lý hoặc Lý thuyết Đại diện: Quản trị CEO và Lợi nhuận Cổ đông Dịch bởi AI
Tập 16 Số 1 - Trang 49-64 - 1991
Lex Donaldson, James H. Davis

Lý thuyết đại diện cho rằng lợi ích của cổ đông cần được bảo vệ bằng cách tách biệt các vai trò của chủ tịch hội đồng quản trị và CEO. Trong khi đó, lý thuyết quản lý lại cho rằng lợi ích của cổ đông sẽ được tối đa hóa khi có sự kết hợp vai trò này. Kết quả của một thử nghiệm thực nghiệm không hỗ trợ cho lý thuyết đại diện và hỗ trợ phần nào cho lý thuyết quản lý.

#lý thuyết đại diện #lý thuyết quản lý #lợi ích cổ đông #CEO #vai trò #tách biệt #kết hợp #thử nghiệm thực nghiệm #quản trị.
Khách hàng hài lòng và danh tiếng có phải là yếu tố trung gian trong mối liên hệ giữa CSR và FP? Bằng chứng từ Úc Dịch bởi AI
Tập 37 Số 2 - Trang 211-229 - 2012
Jeremy Galbreath, Paul Shum

Các nghiên cứu trực tiếp giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và hiệu suất doanh nghiệp (FP) đã được cho là không chính xác. Theo lập luận này, nghiên cứu hiện tại kiểm tra một mô hình trung gian nhằm hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa CSR và FP. Cụ thể, chúng tôi cho rằng danh tiếng và sự hài lòng của khách hàng hoàn toàn trung gian cho mối quan hệ CSR–FP. Dựa trên kết quả từ mẫu 280 doanh nghiệp tại Úc, các phát hiện cho thấy rằng CSR liên quan tới FP. Tuy nhiên, tác động này là gián tiếp: trong khi CSR liên quan đến cả danh tiếng và sự hài lòng của khách hàng, thì chỉ có danh tiếng giữ vai trò trung gian cho mối quan hệ CSR–FP. Kết quả này rất thú vị, cho thấy để giảm thiểu sự mơ hồ trong mối quan hệ CSR–FP, các nhà nghiên cứu cần mở rộng đáng kể các nghiên cứu liên quan đến các biến số điều tiết và trung gian. Các thảo luận về những phát hiện này cùng với hướng nghiên cứu trong tương lai cũng được nêu ra.

#trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp #hiệu suất doanh nghiệp #danh tiếng #sự hài lòng của khách hàng #nghiên cứu trung gian
Lợi Thế Cạnh Tranh và Việc Tiết Lộ Tùy Nghịch trong Các Ngành Công Nghiệp Dịch bởi AI
Tập 22 Số 2 - Trang 125-137 - 1997
Greg Clinch, Robert E. Verrecchia

Chúng tôi khám phá cách mà lợi thế cạnh tranh bất lợi ảnh hưởng đến động lực của các công ty trong việc tiết lộ hoặc giấu thông tin có chung lợi ích đối với các công ty cạnh tranh trong một mô hình duopoly Cournot. Chúng tôi thiết lập sự tồn tại của một điểm cân bằng tiết lộ duy nhất cho vấn đề các công ty tiết lộ thông tin riêng tư về cầu tổng hợp, và chỉ ra rằng các công ty chọn cách giấu thông tin về những nhu cầu rất cao hoặc rất thấp. Chúng tôi cũng cho thấy rằng cả kích thước của khoảng thời gian tiết lộ và xác suất trước khi tiết lộ đều giảm khi cường độ cạnh tranh giữa các công ty tăng lên.

#Lợi thế cạnh tranh #tiết lộ thông tin #duopoly Cournot #nhu cầu tổng hợp #khoảng thời gian tiết lộ
Một bài tổng quan và kế hoạch nghiên cứu về cách thức những thay đổi do công nghệ tại nơi làm việc sẽ tác động đến sức khỏe tâm thần và phúc lợi của nhân viên Dịch bởi AI
Tập 45 Số 3 - Trang 402-424 - 2020
Anya Johnson, Shanta Dey, Helena Nguyen, Markus Groth, Sadhbh Joyce, Leona Tan, Nick Glozier, Samuel B. Harvey

Sức khỏe tâm thần và phúc lợi của nhân viên là một vấn đề ngày càng quan trọng, không chỉ về chi phí tài chính đối với nền kinh tế Australia mà còn về chi phí con người đối với xã hội. Bài tổng quan này xem xét hai xu hướng chính do công nghệ tác động trong môi trường làm việc và trình bày bằng chứng về ảnh hưởng của chúng đến sức khỏe tâm thần, cả tích cực lẫn tiêu cực. Thứ nhất, chúng tôi xem xét cách thức chúng ta làm việc, tập trung vào những thay đổi được thúc đẩy bởi tự động hóa và công nghệ tiên tiến trong môi trường làm việc. Tiếp theo, chúng tôi xem xét nơi và khi nào chúng ta làm việc, chú trọng vào các hình thức làm việc linh hoạt mà công nghệ viễn thông mang lại. Cuối cùng, chúng tôi nhìn về tương lai với một cái nhìn phê phán để khảo sát các hệ quả cho nghiên cứu trong tương lai cũng như cho ngành công nghiệp, chính phủ và giáo dục.

JEL Phân loại: I31

Nghiên Cứu Hiệu Suất của Các Mô Hình Rủi Ro Mặc Định Thay Thế: So Sánh Giữa Các Tiếp Cận Dựa Trên Tùy Chọn và Dựa Trên Kế Toán Dịch bởi AI
Tập 31 Số 2 - Trang 207-234 - 2006
Philip Gharghori, Howard Chan, Robert W. Faff

Trong bài báo này, chúng tôi đánh giá hiệu suất của ba mô hình rủi ro mặc định thay thế, nhằm tìm ra thước đo nào hoạt động tốt nhất, sử dụng một mẫu dữ liệu toàn diện từ thị trường cổ phiếu Úc. Hai mô hình đầu tiên là các mô hình dựa trên tùy chọn và được phát triển từ quan điểm của Merton (1974) rằng vốn cổ phần có thể được xem như một tùy chọn mua trên tài sản của một công ty. Trong mô hình đầu tiên, vốn cổ phần được mô hình hóa như một tùy chọn mua chuẩn. Trong mô hình thứ hai, vốn cổ phần được mô hình hóa như một tùy chọn rào cản phụ thuộc vào quá trình. Mô hình thứ ba được tạo ra bằng cách sử dụng các tỷ lệ kế toán và tương tự như Z-Score của Altman (1968). Để đánh giá mô hình nào vượt trội hơn, chúng tôi xem xét các biến thể của từng mô hình và sau đó dựa vào các bài kiểm tra định hướng dự đoán tập trung vào việc liệu một công ty sau đó có xảy ra rủi ro mặc định hay không. Kết quả của chúng tôi cho thấy các mô hình dựa trên tùy chọn rõ ràng vượt trội hơn so với các mô hình dựa trên tỷ lệ kế toán. Hơn nữa, phân tích của chúng tôi cho thấy các mô hình dựa trên tùy chọn rất thành công trong việc xếp hạng các công ty theo xác suất mặc định. Điều đáng chú ý là hiệu suất của các mô hình dựa trên tùy chọn rất khó để phân biệt với nhau.

#mô hình rủi ro mặc định #mô hình dựa trên tùy chọn #mô hình dựa trên kế toán #xác suất mặc định #phân tích hiệu suất
Những biến dạng do thuế tạo ra mà là quyền chọn về việc tạo ra giá trị: Đề xuất về Thuế lợi tức từ tài nguyên của Úc Dịch bởi AI
Tập 8 Số 2 - Trang 1-14 - 1983
Ray Ball, Jeffrey S. Bowers

Đề xuất thuế trên lợi tức kinh tế thu được từ các khoản đầu tư vào tài nguyên của Úc được xem xét từ quan điểm tiêu chí trung lập của nhà kinh tế học. Được đề xuất bởi Garnaut và Clunies-Ross (1975, 1977), Thuế lợi tức từ tài nguyên được cho là trung lập vì không làm cản trở hoặc biến dạng hành vi đầu tư. Chúng tôi chỉ ra rằng thuế đề xuất thực chất là một quyền chọn mua đối với giá trị được tạo ra bởi mỗi dự án tài nguyên cá nhân. Bằng cách điều chỉnh công thức định giá quyền chọn mua Black-Scholes (1973), chúng tôi sau đó chứng minh rằng tác động hiệu quả của thuế phụ thuộc vào rủi ro, thời gian tồn tại và tính khả thi của từng dự án. Do đó, trong điều kiện rủi ro, Thuế lợi tức từ tài nguyên không đáp ứng được tiêu chí trung lập.

Sự Lây Lan Biến Động Từ Bên Này Sang Bên Khác Qua Biển Tasman Dịch bởi AI
Tập 21 Số 1 - Trang 13-27 - 1996
Tim Brailsford

Nghiên cứu về sự phụ thuộc của biến động cung cấp những hiểu biết hữu ích về cách thông tin được truyền tải và phổ biến giữa các thị trường. Kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này có những hệ quả đối với sự đa dạng hóa quốc tế và hiệu quả thị trường. Bài báo này khám phá sự lây lan của biến động giữa thị trường chứng khoán Úc và New Zealand. Mục tiêu của bài báo là xác định xem sự ngạc nhiên về biến động ở một thị trường có ảnh hưởng đến biến động của lợi nhuận ở thị trường còn lại hay không. Tài liệu hiện có trong lĩnh vực này thường tập trung vào ảnh hưởng của thị trường Mỹ và sử dụng các mô hình chuẩn thuộc lớp ARCH để tính đến sự biến thiên theo thời gian của biến động. Bài báo này tập trung vào các thị trường xuyên Tasman và sử dụng các mô hình phức tạp hơn cho phép phản ứng không đối xứng của biến động đối với các đổi mới trong quá khứ. Sự khác biệt về múi giờ trong giờ giao dịch giữa Úc và New Zealand được phân tích và bốn mô hình được phát triển để kiểm tra hiệu ứng lây lan. Lợi nhuận qua đêm (& biến động) từ thị trường Mỹ được sử dụng để tính đến tác động của tin tức quốc tế. Các kết quả chỉ ra rằng sự ngạc nhiên về biến động ở thị trường lớn hơn Úc ảnh hưởng đến biến động điều kiện tiếp theo của thị trường nhỏ hơn New Zealand. Tương tự, thị trường Úc cũng có vẻ bị ảnh hưởng bởi sự ngạc nhiên về biến động từ thị trường New Zealand. Tuy nhiên, phát hiện gần đây này cũng nhất quán với các phản ứng thị trường đồng thời đối với tin tức quốc tế mà bộ dữ liệu hàng ngày được sử dụng trong nghiên cứu này không thể phân lập.

Bảo vệ quyền của chủ nợ, bảo vệ quyền của cổ đông và chi phí tài trợ bằng nợ trên toàn thế giới Dịch bởi AI
Tập 48 Số 1 - Trang 90-107 - 2023
Thi Huong Dao, Quốc Trung Trần, Thi Mai Lan Nguyen, Tran Sy Nguyen

Tài trợ bằng nợ đóng một vai trò quan trọng trong các quyết định tài chính của doanh nghiệp. Do đó, chi phí nợ là một chủ đề thú vị trong tài chính doanh nghiệp. Sử dụng mẫu gồm 153,784 quan sát từ 30 quốc gia trong giai đoạn từ 2003 đến 2016, chúng tôi phát hiện ra rằng quyền của chủ nợ ảnh hưởng tích cực đến chi phí nợ. Ngoài ra, tác động của quyền cổ đông yếu hơn ở các quốc gia có hệ thống bảo vệ chủ nợ mạnh.

Phân loại JEL: G32, G34