American Journal of Chinese Medicine

SCOPUS (1974-1977,1979-2023)SCIE-ISI

  0192-415X

  1793-6853

  Singapore

Cơ quản chủ quản:  WORLD SCIENTIFIC PUBL CO PTE LTD , World Scientific Publishing Co. Pte Ltd

Lĩnh vực:
Medicine (miscellaneous)Complementary and Alternative Medicine

Các bài báo tiêu biểu

Nghiên cứu hoạt động chống viêm của Acacia niloticaHibiscus sabdariffa Dịch bởi AI
Tập 24 Số 03n04 - Trang 263-269 - 1996
A. Dafallah, Zaki H. Al‐Mustafa

Các chế phẩm chiết xuất từ cây Acacia nilotica và Hibiscus sabdariffa đã được thử nghiệm về hoạt động chống viêm, giảm đau và hạ sốt trên các mô hình động vật. Chiết xuất từ Acacia nilotica cho thấy hiệu ứng ức chế đối với phù chân gây ra bởi carrageenan và sốt do nấm men ở chuột. Nó cũng dẫn đến sự gia tăng đáng kể thời gian phản ứng trên bề mặt nóng ở chuột. Chiết xuất từ Hibiscus sabdariffa không có tác động đối với phù chân nhưng có hiệu ứng ức chế đối với sốt do nấm men và ảnh hưởng đáng kể đến thời gian phản ứng trên bề mặt nóng. Trong số các hợp chất thực vật có trong cả hai cây, flavonoid, polysaccharide và axit hữu cơ có thể chịu trách nhiệm chính cho các hoạt động dược lý của chúng.

Tính Chất Chống Oxy Hóa và Chống U của Polisacarid Thực Vật Dịch bởi AI
Tập 44 Số 03 - Trang 463-488 - 2016
Rui Jiao, Yingxia Liu, Hao Gao, Jia Xiao, Kwok‐Fai So

Stress oxy hóa ngày càng được công nhận là một yếu tố đóng góp chính trong nhiều bệnh lý của con người, từ viêm nhiễm đến ung thư. Dù một số phần của các con đường tín hiệu vẫn còn đang được điều tra, các cơ chế phân tử chi tiết về việc khởi phát bệnh đã được làm sáng tỏ, đặc biệt là mối liên hệ giữa tổn thương do các loài phản ứng oxy (ROS) gia tăng và quá trình hình thành khối u. Bằng chứng mới nổi cho thấy liệu pháp chống oxy hóa có thể đóng vai trò then chốt trong việc điều trị những bệnh này. Trong số các nguồn dược phẩm tiềm năng, polisacarid thực vật là thành phần chống oxy hóa tự nhiên quan trọng cho sức khỏe con người nhờ vào lịch sử lâu dài trong dược lý học dân gian, tính khả dụng rộng rãi và ít tác dụng phụ khi tiêu thụ. Các polisacarid thực vật đã được chứng minh có tính chất chống oxy hóa, chống viêm, tăng cường tính khả thi của tế bào, điều hòa miễn dịch và chức năng chống khối u trong nhiều mô hình bệnh lý, cả trong nghiên cứu phòng thí nghiệm và lâm sàng. Trong bài báo này, chúng tôi đã xem xét tiến trình nghiên cứu về các con đường tín hiệu liên quan đến sự khởi đầu và tiến triển của stress oxy hóa và các bệnh liên quan đến ung thư ở người. Các nguồn gốc tự nhiên, tính chất cấu trúc và hành động sinh học của một số polisacarid thực vật thông dụng như Lycium barbarum, Nhân sâm, Zizyphus Jujuba, Astragalus lentiginosus và Ginkgo biloba được thảo luận chi tiết, với sự nhấn mạnh vào các con đường tín hiệu của chúng. Tất cả các polisacarid thực vật phổ biến đã được đề cập đều có tiềm năng lớn trong việc điều trị stress oxy hóa và rối loạn gây ung thư trong các mô hình tế bào, mô hình bệnh trên động vật và các trường hợp lâm sàng. Các con đường trung tâm ROS (ví dụ, tự thực bào ty thể, MAPK và JNK) và các con đường liên quan đến yếu tố phiên mã (ví dụ, NF-[Công thức: xem văn bản]B và HIF) thường xuyên được sử dụng bởi những polisacarid này với hoặc không có sự tham gia thêm của các con đường viêm và thụ thể chết. Một số polisacarid cũng có thể ảnh hưởng đến các con đường gây ung thư, chẳng hạn như Wnt và p53 để thực hiện vai trò chống khối u của chúng. Ngoài ra, những vấn đề hiện tại và các hướng đi tương lai cho việc ứng dụng những polisacarid thực vật này cũng được liệt kê và thảo luận.

Cordyceps sinensis như một tác nhân điều chỉnh miễn dịch Dịch bởi AI
Tập 24 Số 02 - Trang 111-125 - 1996
Yuh‐Chi Kuo, Wei-Jem Tsai, Ming‐Shi Shiao, Chieh‐Fu Chen, Ching-Yuang Lin

Các ảnh hưởng của các phân đoạn khác nhau của chiết xuất methanol từ thể quả của Cordyceps sinensis đến phản ứng lymfoproliferative, hoạt động của tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK), và sản xuất interleukin-2 (IL-2) và yếu tố hoại tử khối u-α (TNF-α) được kích thích bởi phytohemagglutinin (PHA) trên các tế bào đơn nhân người (HMNC) đã được nghiên cứu. Hai trong số 15 phân đoạn cột (CS-36-39 và CS-48-51) đã ức chế đáng kể phản ứng blastogenesis (IC50 =; 71.0 ± 3.0 và 21.7 ± 2.0 μg/ml, tương ứng), hoạt động của tế bào NK (IC50 =; 25.0 ± 2.5 và 12.9 ± 5.8 μg/ml, tương ứng) và sản xuất IL-2 của HMNC được kích thích bởi PHA (IC50 =; 9.6 ± 2.3 và 5.5 ± 1.6 μg/ml, tương ứng). Sản xuất TNF-α trong các mẫu nuôi cấy HMNC cũng bị chặn bởi CS-36-39 và CS-48-51 (IC50 =; 2.7 ± 1.0 và 12.5 ± 3.8 μg/ml, tương ứng). Những kết quả này cho thấy rằng cả CS-36-39 và CS-48-51 đều không độc tế bào đối với HMNC, và rằng các thành phần ức chế miễn dịch hiện diện trong Cordyceps sinensis.

Vai trò tiềm năng của Nhân sâm trong việc điều trị ung thư đại trực tràng Dịch bởi AI
Tập 36 Số 06 - Trang 1019-1028 - 2008
Chong‐Zhi Wang, Chun‐Su Yuan

Ung thư đại trực tràng vẫn là một trong những loại ung thư phổ biến nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong liên quan đến ung thư tại Hoa Kỳ. Nhiều loại thuốc hóa trị hiện đang được sử dụng có nguồn gốc từ thực vật. Việc xác định các nguồn thảo dược, bao gồm cả những loại thuộc họ Nhân sâm, để phát triển các liệu pháp chống ung thư tốt hơn vẫn là một bước quan trọng trong việc tiến bộ hóa điều trị ung thư. Trong bài viết này, các vai trò tiềm năng của các loại thảo mộc nhân sâm, đặc biệt là nhân sâm Mỹ và nhân sâm không tô, trong liệu pháp điều trị ung thư đại trực tràng được trình bày. Các thành phần chính có hoạt tính dược lý của nhân sâm là ginsenosides, có thể được phân loại chủ yếu thành các nhóm protopanaxadiol và protopanaxatriol. Mối quan hệ cấu trúc-hoạt tính giữa các cấu trúc hóa học và hoạt tính dược lý của chúng được thảo luận. Ngoài ra, các nhiệt độ và thời gian hấp khác nhau của thảo mộc nhân sâm có thể thay đổi hồ sơ ginsenoside, và tăng cường khả năng chống ung thư của chúng. Quá trình xử lý nhiệt này có thể gia tăng vai trò của nhân sâm trong việc điều trị ung thư đại trực tràng.

#Ung thư đại trực tràng #Nhân sâm #Ginsenosides #Hóa trị liệu #Hoạt tính dược lý
Thực Vật Học, Hóa Học Thực Vật, Dược Lý và Độc Tính của Strychnos nux-vomica L.: Một Bài Tổng Quan Dịch bởi AI
Tập 46 Số 01 - Trang 1-23 - 2018
Rixin Guo, Ting Wang, Guohong Zhou, Mengying Xu, Xiankuo Yu, Xiao Zhang, Feng Sui, Qing Li, Liying Tang, Zhuju Wang

Strychnos nux-vomica L. thuộc chi Strychnos của họ Loganiaceae và được trồng chủ yếu ở Sri Lanka, Ấn Độ và Australia. Thành phần dược liệu truyền thống của cây là hạt, được gọi là Nux vomica. Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quan hợp lý và toàn diện về S. nux-vomica L., bao gồm thực vật học, dược lý dân gian, hóa học thực vật, dược lý và độc tính, từ đó xây dựng nền tảng cho các nghiên cứu trong tương lai. Tính đến nay, đã có hơn 84 hợp chất, bao gồm alcaloid, glycosid iridoid, glycosid flavonoid, triterpenoid, steroid và axit hữu cơ, trong số đó, đã được tách chiết và xác định từ S. nux-vomica. Những hợp chất này có nhiều hoạt tính sinh học, bao gồm tác động đến hệ thống thần kinh, tác dụng giảm đau và chống viêm, hiệu ứng chống u, ức chế sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh và điều hòa chức năng miễn dịch. Hơn nữa, độc tính và các phương pháp giải độc được thảo luận sơ bộ ở cuối bài tổng quan này. Trong các nghiên cứu sâu hơn về S. nux-vomica, các chiến lược tách chiết dựa trên hoạt tính sinh học nên được nhấn mạnh. Những tác động chống u của nó cần được nghiên cứu thêm và các thí nghiệm trên động vật in vivo nên được thực hiện song song với thử nghiệm in vitro. Hoạt tính dược lý và độc tính của strychnine [Công thức: xem văn bản]-oxide và brucine [Công thức: xem văn bản]-oxide cần được nghiên cứu để khám phá cơ chế giải độc liên quan đến quá trình chế biến sâu hơn.

#Strychnos nux-vomica #dược lý #độc tính #hóa học thực vật #hoạt tính sinh học
Oridonin Induces Apoptosis, Inhibits Migration and Invasion on Highly-Metastatic Human Breast Cancer Cells
Tập 41 Số 01 - Trang 177-196 - 2013
Shengpeng Wang, Zhangfeng Zhong, Jian‐Bo Wan, Wen Siang Tan, Guosheng Wu, Meiwan Chen, Yitao Wang

Oridonin, a natural tetracycline diterpenoid isolated from Chinese herb Rabdosia rubescens, has been reported to be a potent cytotoxic agent against a wide variety of tumors. However, its effect on highly metastatic breast cancer cells has not been addressed. In this study, we investigated the effects of oridonin on growth, migration and invasion of highly-metastatic human breast cancer cells. Our results showed that oridonin induced potent growth inhibition on human breast cancer cells MCF-7 and MDA-MB-231 in a time- and dose-dependent manner. According to the flow cytometric analysis, oridonin suppressed MCF-7 cell growth by cell cycle arrest at the G2/M phase and caused accumulation of MDA-MB-231 cells in the Sub-G1 phase. The induced apoptotic effect of oridonin was further confirmed by a morphologic characteristics assay and TUNEL assay. Oridonin triggered the reduction of Bcl-2/Bax ratio, caspase-8, NF-κB (p65), IKKα, IKKβ, phospho-mTOR, and increased expression level of cleaved PARP, Fas and PPARγ in a time-dependent manner. Immunofluorescent analysis showed that γH2AX-containing nuclear foci were significant in oridonin-treated MDA-MB-231 cells. Meanwhile, oridonin significantly suppressed MDA-MB-231 cell migration and invasion, decreased MMP-2/MMP-9 activation and inhibited the expression of Integrin β1 and FAK. In conclusion, oridonin inhibited the growth and induced apoptosis in breast cancer cells, which might be related to DNA damage and activation of intrinsic or extrinsic apoptotic pathways. Moreover, oridonin also inhibited tumor invasion and metastasis in vitro possibly via decreasing the expression of MMPs and regulating the Integrin β1/FAK pathway in MDA-MB-231 cells.

Về Giảm Đau Bằng Châm Cứu và Cơ Chế Của Đau Dịch bởi AI
Tập 03 Số 04 - Trang 311-334 - 1975
Sven A. Anderson, E. Holmgren

Ảnh hưởng của kích thích điện điều kiện thông qua kim hoặc điện cực trên bề mặt áp dụng cho tay và má đến ngưỡng đau của răng được nghiên cứu trên 34 sinh viên nha khoa. Kích thích điều kiện với tần số 2/giây cho thấy ngưỡng đau tăng dần theo thời gian, tiếp theo là sự trở về chậm đến mức kiểm soát trong giai đoạn sau khi kích thích điều kiện. Ở mỗi cá nhân, biên độ tăng ngưỡng có thể lặp lại. Kết luận được đưa ra rằng những tác động này không do động lực mà do các cơ chế sinh lý thần kinh cơ bản hơn. Ngưỡng đau chủ yếu được tăng cường bởi kích thích điều kiện theo phân đoạn; kích thích không liên quan theo phân đoạn thường chỉ mang lại những tác động nhỏ. Kích thích điều kiện với tần số 100/giây chỉ tạo ra một tác động ngắn hạn chỉ ở mức phân đoạn. Các tác động với các đặc điểm của cả 2/giây và 100/giây đã được tạo ra bằng cách kích thích điều kiện ở 10/giây.

Nó gợi ý rằng sự truyền dẫn xung từ các sợi cảm giác đau đến các đường dẫn lên trên được kiểm soát ở mức phân đoạn bằng (a) sự ức chế trước synap trong nhóm sợi kích thích gây ra phản xạ uốn cong mà trong đó các sợi cảm giác đau được cho là một phần; (b) sự ức chế sau synap giữa các đường dẫn thay thế được kích thích bởi các sợi cảm giác uốn cong; và (c) kiểm soát đi xuống từ các hệ thống trên tủy sống có thể sử dụng cơ chế tương tự như các sợi cảm giác chính.

Nghiên cứu về Tác động Tim mạch của Salvia miltiorrhiza Dịch bởi AI
Tập 14 Số 01n02 - Trang 26-32 - 1986
Xun‐Lan Lei, George C.Y. Chiou

Các tác động tim mạch của S. miltiorrhiza (SM) đã được nghiên cứu đối với huyết áp toàn thân ở chuột bạch. Chuẩn bị tim Langendorff trên chuột bạch và bốn loại mạch máu ở chó bao gồm động mạch vành, động mạch thận, động mạch đùi và động mạch mạc treo. SM gây hạ huyết áp theo liều mà không thay đổi nhịp tim. Sự hạ huyết áp bị đối kháng bởi atropine, propranolol và chlorpheniramine cộng với cimetidine. Trong mẫu tim nguyên vẹn tách biệt, SM đã làm tăng lưu lượng máu vành một cách đáng kể trong 15 phút và có tác dụng inotropic dương trong 3 phút sau khi tiêm mạch. SM đã làm giãn tất cả các động mạch ở nồng độ thấp (3.0 mg/ml) và co tất cả trừ động mạch vành ở nồng độ cao hơn (10.0 mg/ml). Động mạch vành đã giãn ở tất cả các liều SM được thử nghiệm.

Tác động của Liu-Wei-Di-Huang Wan đến biểu hiện gen cytokine từ tế bào lympho máu ngoại vi của người Dịch bởi AI
Tập 31 Số 02 - Trang 247-257 - 2003
Jiann‐Jong Shen, Chunjing Lin, Jing‐Long Huang, Kue‐Hsiung Hsieh, Ming‐Ling Kuo

Liu-Wei-Di-Huang Wan (LWDHW) đã được các bác sĩ y học cổ truyền Trung Quốc sử dụng để điều trị cho bệnh nhân hen suyễn. Nghiên cứu này nhằm xem xét tác động tiềm năng của bài thuốc này đến việc điều hòa biểu hiện gen cytokine loại T helper (Th)1 và Th2 trong môi trường nuôi cấy in vitro. Các tế bào máu ngoại vi đơn nhân (PBMC) đã được kích hoạt bằng mitogen trong 24 giờ có mặt hoặc không có chiết xuất LWDHW. Nồng độ các cytokine khác nhau trong huyết thanh nuôi cấy đã được xác định bằng phương pháp ELISA. RNA được tách chiết từ các tế bào nuôi cấy đã được phân tích bằng RT-PCR. Kết quả cho thấy rằng biểu hiện của tất cả các cytokine (loại Th2: IL-4, IL-5, IL-10 hoặc IL-13 và loại Th1: IL-2 và IFN-γ) được kiểm tra đều bị ức chế ở cả mức RNA và protein bởi LWDHW. Bởi vì khả năng sống sót của tế bào tương tự trong tất cả các mẫu nuôi cấy, sự giảm sản xuất cytokine không phải do độc tính của LWDHW. Hơn nữa, các tế bào vẫn giữ hoặc tăng cường khả năng phản ứng với kích thích mitogen sau khi ủ với bài thuốc LWDHW. Do đó, dữ liệu cho thấy rằng LWDHW hoạt động trực tiếp lên biểu hiện gen cytokine từ PBMC đã được kích hoạt.

#Liu-Wei-Di-Huang Wan #cytokine #T helper #PBMC #hen suyễn #ức chế biểu hiện gen
Ảnh Hưởng Của Nhân Sâm Đỏ Đến Miễn Dịch Hậu Phẫu Và Tỷ Lệ Tồn Tại Của Bệnh Nhân Ung Thư Dạ Dày Giai Đoạn III Dịch bởi AI
Tập 30 Số 04 - Trang 483-494 - 2002
Soon Yong Suh, Matthew Kroh, Nam Ryeol Kim, Yong Geul Joh, Min Young Cho

Trong bài báo này, chúng tôi trình bày bằng chứng rằng bột nhân sâm đỏ từ Panax ginseng C.A. Meyer ức chế sự tái phát của ung thư dạ dày giai đoạn III theo phân loại AJCC và cho thấy các hoạt động điều chỉnh miễn dịch trong quá trình hóa trị hậu phẫu, sau khi cắt bỏ curative với dissection hạch lympho D2. Phân tích cytometry dòng chảy cho các tiểu thể T-lymphocyte ngoại vi cho thấy bột nhân sâm đỏ khôi phục mức độ CD4 về giá trị ban đầu trước phẫu thuật trong quá trình hóa trị hậu phẫu. Sự ức chế CD3 trong quá trình hóa trị hậu phẫu cũng đã bị bột nhân sâm đỏ ngăn chặn. Nghiên cứu này đã chứng minh tỷ lệ sống sót không bệnh và tỷ lệ sống tổng thể trong năm năm cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân sử dụng bột nhân sâm đỏ trong quá trình hóa trị hậu phẫu so với nhóm đối chứng (68,2% so với 33,3%, 76,4% so với 38,5%, p < 0,05). Mặc dù có hạn chế về số lượng bệnh nhân (n = 42), những phát hiện này gợi ý rằng bột nhân sâm đỏ có thể giúp cải thiện khả năng sống sót hậu phẫu ở những bệnh nhân này. Thêm vào đó, bột nhân sâm đỏ có thể có một số đặc tính điều chỉnh miễn dịch liên quan đến hoạt động của CD3 và CD4 ở những bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn muộn trong quá trình hóa trị hậu phẫu.