American Journal of Chinese Medicine

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Sự thay đổi trong các tiềm năng thính giác ở não giữa và vỏ não trong khi thực hành Thiền Qi Gong Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 18 Số 03n04 - Trang 95-103 - 1990
Guolong Liu, Rongqing Cui, LI Guo-zhang, Chi‐ming Huang

"Thiền Qi Gong" (QG) là một bài tập thiền đã được biết đến từ hàng ngàn năm ở Trung Quốc và luôn được thực hành rộng rãi. Nó được tuyên bố là có nhiều lợi ích về sức khỏe và khả năng chữa trị. Để cung cấp một cái nhìn về tác động của QG lên các cấu trúc não dọc theo toàn bộ trục thần kinh từ ngoại biên đến vỏ não, chúng tôi đã theo dõi phản ứng thính giác vỏ não kích thích bằng sóng ngắn, phản ứng kích thích ở độ trễ trung bình, và tiềm năng thính giác kích thích ở độ trễ dài, trước, trong và sau khi thực hành QG. Các kết quả của chúng tôi cho thấy QG đã gây ra sự gia tăng phản ứng thính giác ở não giữa cùng với sự suy giảm của các phản ứng ở vỏ não. Những quan sát này có thể liên quan đến các lợi ích chữa trị và sức khỏe khác của QG.

#Thiền Qi Gong #tổn thương thính giác #não giữa #vỏ não #tác động sức khỏe
Các tần số khác nhau của điện châm đã sửa đổi hoạt động tế bào của các neuron serotonergic trong thân não Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 28 Số 03n04 - Trang 435-441 - 2000
Young‐Bae Kwon, Myung-Soo Kang, Sung-sae Son, Jun-Tae Kim, Yon-ho Lee, Ho Jae Han, Jang-hern Lee

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đánh giá xem các tần số khác nhau của điện châm (EA) có làm thay đổi hoạt động của các neuron serotonergic ở nhân raphe lưng (DR) và nhân raphe lớn (RMg) hay không, thông qua kỹ thuật nhuộm miễn dịch đồng dấu kép cho Fos và serotonin. Kết quả cho thấy rằng cả điện châm tần số cao và thấp đều làm tăng sự đồng vị trí giữa Fos và serotonin trong DR, trong khi không có sự thay đổi ở RMg so với nhóm kiểm soát gây mê. Ngoài ra, điện châm tần số cao đã làm tăng hoạt động serotonergic trong DR rõ rệt hơn so với điện châm tần số thấp, cho thấy rằng con đường serotonergic từ DR đóng vai trò quan trọng trong cơ chế giảm đau của điện châm tần số cao.

Hiệu quả của Điện Châm trong Viêm Lớp Dày Bàng Chân Mạn Tính: Một Nghiên Cứu Ngẫu Nhiên Có Đối Chứng Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 40 Số 06 - Trang 1167-1176 - 2012
Wipoo Kumnerddee, Nitsara Pattapong

Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát hiệu quả của điện châm kết hợp với các phương pháp điều trị thông thường và so sánh với hiệu quả của các phương pháp điều trị thông thường riêng lẻ ở bệnh nhân bị viêm lớp dày bàng chân mạn tính. Ba mươi bệnh nhân bị viêm lớp dày bàng chân mạn tính kháng trị được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm. Các đối tượng trong nhóm đối chứng nhận năm tuần điều trị thông thường, bao gồm thực hiện bài tập kéo giãn, điều chỉnh giày và thuốc giảm đau cứu cánh. Các đối tượng trong nhóm điện châm nhận các phương pháp điều trị tương tự cộng với mười buổi điện châm hai lần mỗi tuần. Các chỉ tiêu bao gồm tỷ lệ thành công được xác định bằng mức giảm tối thiểu 50% trong Thang Đánh Giá Hình Ảnh (VAS) và Chỉ Số Chức Năng Chân (FFI). Vào cuối quá trình điều trị, VAS giảm đáng kể từ 6.00 ± 1.69 xuống 1.89 ± 1.59 và từ 6.27 ± 2.34 xuống 5.40 ± 2.26 ở nhóm điện châm và nhóm đối chứng, tương ứng. FFI chỉ giảm đáng kể trong nhóm điện châm (p < 0.05). Các đối tượng trong nhóm điện châm có tỷ lệ thành công cao hơn so với nhóm đối chứng (80% so với 13.3%, tương ứng). FFI trong nhóm điện châm tốt hơn các đối tượng trong nhóm đối chứng (p < 0.001). Tại lần tái khám tuần thứ sáu, các đối tượng trong nhóm điện châm cho thấy FFI và tỷ lệ thành công tốt hơn về cơn đau trong suốt cả ngày so với nhóm đối chứng (p < 0.05). Điện châm kết hợp với các phương pháp điều trị thông thường đạt được tỷ lệ thành công 80% trong viêm lớp dày bàng chân mạn tính, hiệu quả hơn so với các phương pháp điều trị thông thường riêng lẻ. Các tác dụng kéo dài ít nhất trong sáu tuần.

Hiệu quả của các phân đoạn khác nhau của Anethum graveolens trên lipoprotein huyết thanh và trạng thái oxy hóa huyết thanh và gan trong mô hình chuột gây tăng cholesterol huyết tương. Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 37 Số 04 - Trang 685-699 - 2009
Seifollah Bahramikia, Razieh Yazdanparast

Trong vài năm qua, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào các loại cây có tính chất điều trị. Anethum graveolens L. (Họ Cần tây) được sử dụng như một loại cây chống tăng cholesterol trong y học dân gian Iran. Nghiên cứu này được thực hiện để tiết lộ các tính chất chống oxy hóa và hạ lipid của các phân đoạn khác nhau của chiết xuất từ Anethum graveolens (AGE), được đánh giá trên chuột bị tăng cholesterol. Các động vật được chia thành năm nhóm, Nhóm I là nhóm đối chứng khỏe mạnh; các nhóm II đến V được làm tăng cholesterol bằng cách cho ăn chế độ ăn nhiều chất béo (HFD) trong 3 tuần. Sau khi gây tăng cholesterol, chuột ở các nhóm III đến V nhận được các phân đoạn khác nhau [diethyl ether (EEF), ethyl acetate (EAF) và nước (WF)] của AGE với liều 50 mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày trong 2 tuần. Việc cho ăn HFD làm tăng đáng kể cholesterol toàn phần huyết thanh (TC), triglyceride (TG) và LDL-cholesterol ở Nhóm II so với Nhóm I. Việc điều trị cho chuột bằng các phân đoạn EEF, EAF và WF đã gây ra sự giảm đáng kể mức TC, TG và LDL-C lần lượt là (53.8, 49.9 và 42.3%), (51.5, 38.45 và 30.5%) và (54.8, 51.4 và 41.8%), tuy nhiên mức HDL-cholesterol thì tăng lên. Để hiểu biết hơn về cơ chế hoạt động, các tác động của các phân đoạn khác nhau đối với stress oxy hóa do HFD gây ra cũng đã được nghiên cứu. Việc điều trị bằng các phân đoạn khác nhau của AGE đã làm tăng đáng kể hoạt động của hệ thống chống oxy hóa gan như SOD, CAT và GSH, đồng thời giảm lipid peroxidation ở chuột được điều trị bằng HFD. Trong số các phân đoạn này, EEF cho thấy tăng cao nhất và WF có mức tăng thấp nhất trong các yếu tố đã đề cập ở trên. Dựa trên những kết quả này, có thể kết luận rằng các phân đoạn khác nhau của AGE, đặc biệt là EEF, ngoài tính chất hạ lipid của nó, có thể bảo vệ gan chống lại tổn thương oxy hóa do HFD gây ra ở chuột.

Tác dụng ức chế của Selaginella tamariscina đối với các phản ứng dị ứng tức thì Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 33 Số 06 - Trang 957-966 - 2005
Yue Dai, Paul Pui‐Hay But, L.M. Chu, Yiu-Pong Chan

Tác dụng chống dị ứng của chiết xuất ethanol 70% từ thảo mộc Selaginella tamariscina (EST) đã được đánh giá trong nghiên cứu này. EST được cung cấp với liều lượng 500 và 1000 mg/kg có thể ức chế sốc phản vệ toàn thân ở chuột do hợp chất 48/80 gây ra theo tỉ lệ phụ thuộc liều. Nó cũng có thể ức chế phụ thuộc liều các phản ứng dị ứng cutaneous thụ động đồng loại ở chuột và các phản ứng trên da do histamine và serotonin ngoại sinh gây ra, với sự khác biệt đáng kể được quan sát thấy ở liều 1000 mg/kg. Thêm vào đó, EST có thể giảm sự phóng thích histamine từ các tế bào mast của chuột được kích thích bởi hợp chất 48/80 và một kháng nguyên trong điều kiện in vitro. Khi được ấp với các tế bào mast của chuột, chiết xuất (200 μg/ml) có thể làm tăng đáng kể mức cAMP nội bào. Phát hiện này cho thấy EST ức chế các phản ứng dị ứng tức thì phụ thuộc vào tế bào mast. Các tác dụng của nó có vẻ được trung gian thông qua việc giảm sự phóng thích các amin vasoactive như histamine từ các tế bào mast thông qua việc ổn định màng tế bào và làm yếu đi hành động viêm của các amin này. Dựa trên những kết quả này, Selaginella tamariscina và một trong các thành phần hoạt tính của nó là flavonoid có thể hữu ích như các phương thuốc tiềm năng cho viêm mũi dị ứng và các bệnh liên quan đến dị ứng khác.

Calotropis gigantea Kích Thích Neuritogenesis và Synaptogenesis Thông Qua Sự Kích Hoạt Của Đường Tín Hiệu NGF-TrkA-Erk1/2 Trong Các Neuron Hippocampal Của Chuột Nhắt Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 46 Số 08 - Trang 1861-1877 - 2018
Md. Nazmul Haque, Md. Mohibbullah, Yong–Ki Hong, Il Soo Moon

Calotropis gigantea (L.) R. Br (họ Apocynaceae), thường được biết đến với tên gọi cây sữa hay hoa vương miện, là một loại cây bụi lớn có nguồn gốc từ các vùng ôn đới châu Á, bao gồm Trung Quốc, Bangladesh và Ấn Độ, và có lịch sử lâu dài trong việc sử dụng trong y học cổ truyền. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã điều tra tác động điều chỉnh thần kinh của các chiết xuất ethanol từ lá C. gigantea (CGE) trong giai đoạn hình thành synapse vào giai đoạn muộn của sự phát triển neuron và trong giai đoạn đầu của sự phát triển nhánh thần kinh trong các neuron hippocampal của chuột nhắt. Hoạt động neuritogenic tối đa đạt được ở nồng độ CGE là 7.5[Formula: xem văn bản][Formula: xem văn bản]g/ml. Ở nồng độ này, CGE đã tạo điều kiện cho sự phát triển ban đầu của cấu trúc tế bào, được chứng minh bằng việc gia tăng các tham số định hình, như số lượng, chiều dài và số nhánh của các nhánh thần kinh ban đầu, trục thần kinh và nhánh thần kinh. Trong giai đoạn synaptogenic (DIV 14), miễn dịch hóa học tế bào (ICC) cho thấy CGE đã tăng cường protein túi synapse 2 (SV2, một dấu hiệu của các đầu trục thần kinh) và độ dày màng sau synapse-95 (PSD-95, một dấu hiệu sau synapse) và sự đồng vị trí của chúng. CGE đã gia tăng yếu tố phát triển thần kinh (NGF) và kích hoạt kinase điều hòa tín hiệu ngoại bào 1/2 (Erk1/2), mà bị chặn bởi một chất ức chế đặc hiệu TrkA, gợi ý rằng tiềm năng neuritogenic và synaptogenic của CGE là do sự kích hoạt của tín hiệu NGF-TrkA-Erk1/2. Hơn nữa, UPLC của CGE không phát hiện thấy stigmasterol, một thành phần hoạt động của C. gigantea. Tuy nhiên, các phân đoạn chloroform-methanol và ethyl acetate của CGE đã thể hiện hoạt động neuritogenic ban đầu, gợi ý rằng nhiều thành phần hoạt động đã chịu trách nhiệm cho các tính chất tương tự neurotrophic của CGE. Dữ liệu của chúng tôi chứng minh khả năng điều chỉnh thần kinh của CGE và cung cấp một phương tiện để xác định các phytochemical mới có hoạt tính với tiềm năng nootropic, phòng ngừa hoặc điều trị cho bộ não con người.

Ảnh hưởng của Commiphora Molmol (nhựa dầu-gum) đến các biến đổi tế bào học và sinh hóa do Cyclophosphamide gây ra ở chuột Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 22 Số 01 - Trang 77-82 - 1994
M.M. AI-Harbi, S. Qureshi, Mohammed M. Ahmed, Syed Rafatullah, Abdul Haleem Shah

Tiềm năng kháng dị bào và sinh hóa của Commiphora molmol đã được nghiên cứu trên chuột mù Thụy Sĩ khi được điều trị bằng cyclophosphamide (CP). Việc điều trị bằng C. molmol (125-500 mg/kg) không cho thấy tác động gây đột biến. Nó gây ra hiệu ứng ức chế phân bào có ý nghĩa và có liên quan đến liều lượng tại các tế bào xương đùi và làm giảm mức RNA trong các tế bào gan so với nhóm chứng. Điều trị bằng CP cho thấy sự gia tăng có ý nghĩa về tần suất của các nhân vi thể, độc tính tế bào và giảm nội dung của axit nucleic và protein. Việc điều trị trước bằng C. molmol không thể làm thay đổi các hiệu ứng sinh hóa và tế bào học của CP cũng như không cho thấy bất kỳ hiệu ứng bổ sung nào của cả hai phương pháp điều trị.

Oridonin Induces Apoptosis, Inhibits Migration and Invasion on Highly-Metastatic Human Breast Cancer Cells
American Journal of Chinese Medicine - Tập 41 Số 01 - Trang 177-196 - 2013
Shengpeng Wang, Zhangfeng Zhong, Jian‐Bo Wan, Wen Siang Tan, Guosheng Wu, Meiwan Chen, Yitao Wang

Oridonin, a natural tetracycline diterpenoid isolated from Chinese herb Rabdosia rubescens, has been reported to be a potent cytotoxic agent against a wide variety of tumors. However, its effect on highly metastatic breast cancer cells has not been addressed. In this study, we investigated the effects of oridonin on growth, migration and invasion of highly-metastatic human breast cancer cells. Our results showed that oridonin induced potent growth inhibition on human breast cancer cells MCF-7 and MDA-MB-231 in a time- and dose-dependent manner. According to the flow cytometric analysis, oridonin suppressed MCF-7 cell growth by cell cycle arrest at the G2/M phase and caused accumulation of MDA-MB-231 cells in the Sub-G1 phase. The induced apoptotic effect of oridonin was further confirmed by a morphologic characteristics assay and TUNEL assay. Oridonin triggered the reduction of Bcl-2/Bax ratio, caspase-8, NF-κB (p65), IKKα, IKKβ, phospho-mTOR, and increased expression level of cleaved PARP, Fas and PPARγ in a time-dependent manner. Immunofluorescent analysis showed that γH2AX-containing nuclear foci were significant in oridonin-treated MDA-MB-231 cells. Meanwhile, oridonin significantly suppressed MDA-MB-231 cell migration and invasion, decreased MMP-2/MMP-9 activation and inhibited the expression of Integrin β1 and FAK. In conclusion, oridonin inhibited the growth and induced apoptosis in breast cancer cells, which might be related to DNA damage and activation of intrinsic or extrinsic apoptotic pathways. Moreover, oridonin also inhibited tumor invasion and metastasis in vitro possibly via decreasing the expression of MMPs and regulating the Integrin β1/FAK pathway in MDA-MB-231 cells.

Lá Sen (Nelumbo nucifera) và các Thành Phần Hoạt Động của nó Ngăn Chặn Phản Ứng Viêm trong Tế Bào Đại Thực Bào Thông qua Đường Tín hiệu JNK/NF-κB Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 42 Số 04 - Trang 869-889 - 2014
Shing‐Hwa Liu, Tien-Hui Lu, Chin‐Chuan Su, Ing‐Shiow Lay, Hui‐Yi Lin, Kai‐Min Fang, Tsung-Jung Ho, Kuo‐Liang Chen, Yi‐Chang Su, Wenchang Chiang, Ya‐Wen Chen

Viêm là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng trên toàn thế giới gây ra nhiều bệnh, chẳng hạn như bệnh viêm ruột (IBD), sốc nhiễm khuẩn, viêm tụy cấp tính và tổn thương phổi. Do đó, có sự quan tâm lớn đến các phương pháp mới nhằm giới hạn viêm. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã điều tra lá của cây Nelumbo nucifera Gaertn, một loài cây thủy sinh lâu năm được trồng ở Đông Á và Ấn Độ, về các tác động sinh học chống viêm trong dòng tế bào đại thực bào murine RAW264.7. Kết quả cho thấy lipopolysaccharide (LPS) làm tăng biểu hiện protein của inducible nitric oxide synthase (iNOS) và COX-2, cũng như biểu hiện mRNA và mức độ của IL-6 và TNF-α, trong khi NNE làm giảm đáng kể các tác động của LPS. LPS cũng kích thích biểu hiện protein phospho-JNK. Inhibitor đặc hiệu JNK SP600125 đã làm giảm biểu hiện protein của phospho-JNK, iNOS, COX-2, cùng với biểu hiện và mức mRNAs của IL-6 và TNF-α. Hơn nữa, NNE cũng giảm biểu hiện protein của phospho-JNK. LPS cũng được phát hiện làm tăng sự chuyển vị của NF-κB từ chất xuất ra nhân tế bào và làm giảm biểu hiện của IκB trong chất xuất. Điều trị bằng NNE và SP600125 đã phục hồi biểu hiện NF-κB và IκB do LPS gây ra. Trong khi đó, phospho-ERK và phospho-p38 do LPS gây ra không thể được hồi phục bởi NNE. Để điều tra sâu hơn các thành phần chính của NNE về tác động chống viêm, chúng tôi xác định quercetin và catechin trong tín hiệu viêm. Kết quả cho thấy quercetin và catechin đã làm giảm đáng kể biểu hiện protein của iNOS, COX-2 và phospho-JNK. Ngoài ra, các mRNAs và mức độ của IL-6 và TNF-α cũng giảm bởi điều trị quercetin và catechin trong các tế bào RAW264.7 được kích thích bởi LPS. Những kết quả này cho thấy NNE và các thành phần chính của nó là quercetin và catechin thể hiện các hoạt động chống viêm bằng cách ức chế các con đường được điều chỉnh bởi JNK và NF-κB và do đó có thể là một tác nhân chống viêm hữu ích.

Ảnh Hưởng Của Nhân Sâm Đỏ Đến Miễn Dịch Hậu Phẫu Và Tỷ Lệ Tồn Tại Của Bệnh Nhân Ung Thư Dạ Dày Giai Đoạn III Dịch bởi AI
American Journal of Chinese Medicine - Tập 30 Số 04 - Trang 483-494 - 2002
Soon Yong Suh, Matthew Kroh, Nam Ryeol Kim, Yong Geul Joh, Min Young Cho

Trong bài báo này, chúng tôi trình bày bằng chứng rằng bột nhân sâm đỏ từ Panax ginseng C.A. Meyer ức chế sự tái phát của ung thư dạ dày giai đoạn III theo phân loại AJCC và cho thấy các hoạt động điều chỉnh miễn dịch trong quá trình hóa trị hậu phẫu, sau khi cắt bỏ curative với dissection hạch lympho D2. Phân tích cytometry dòng chảy cho các tiểu thể T-lymphocyte ngoại vi cho thấy bột nhân sâm đỏ khôi phục mức độ CD4 về giá trị ban đầu trước phẫu thuật trong quá trình hóa trị hậu phẫu. Sự ức chế CD3 trong quá trình hóa trị hậu phẫu cũng đã bị bột nhân sâm đỏ ngăn chặn. Nghiên cứu này đã chứng minh tỷ lệ sống sót không bệnh và tỷ lệ sống tổng thể trong năm năm cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân sử dụng bột nhân sâm đỏ trong quá trình hóa trị hậu phẫu so với nhóm đối chứng (68,2% so với 33,3%, 76,4% so với 38,5%, p < 0,05). Mặc dù có hạn chế về số lượng bệnh nhân (n = 42), những phát hiện này gợi ý rằng bột nhân sâm đỏ có thể giúp cải thiện khả năng sống sót hậu phẫu ở những bệnh nhân này. Thêm vào đó, bột nhân sâm đỏ có thể có một số đặc tính điều chỉnh miễn dịch liên quan đến hoạt động của CD3 và CD4 ở những bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn muộn trong quá trình hóa trị hậu phẫu.

Tổng số: 42   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5