Agricultural and Food Economics

SCIE-ISI SCOPUS (2013-2023)SSCI-ISI

  2193-7532

 

 

Cơ quản chủ quản:  Springer Nature , SpringerOpen

Lĩnh vực:
Economics and EconometricsFood ScienceAgricultural and Biological Sciences (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của nông dân sản xuất rau củ truyền thống ở Kenya trong chuỗi thị trường thực phẩm nông sản có giá trị cao: Phân tích hồi quy probit đa biến Dịch bởi AI
Tập 7 - Trang 1-17 - 2019
Evans Ngenoh, Barnabas K. Kurgat, Hillary K. Bett, Sindu W. Kebede, Wolfgang Bokelmann
Các nông hộ nhỏ thường bị loại trừ khỏi sự tham gia hiệu quả và hiệu quả vào các chuỗi thị trường thực phẩm nông sản có giá trị cao do các rào cản cạnh tranh lớn và một số thất bại trên thị trường dọc theo các chuỗi này. Mục tiêu của nghiên cứu này là đóng góp vào khả năng cạnh tranh của các nông hộ nhỏ theo cách có sự phối hợp và bền vững hơn nhằm thúc đẩy sự tham gia hiệu quả và hiệu lực của họ vào các chuỗi thị trường thực phẩm nông sản có giá trị cao. Cụ thể, nghiên cứu nhằm xác định vai trò chính của các vốn của hộ gia đình, các yếu tố thể chế và liên quan đến quyền tiếp cận trong việc điều chỉnh quyết định của các nông hộ nhỏ trồng rau củ truyền thống châu Phi (AIVs) khi tiếp cận các trụ cột của khả năng cạnh tranh trong các chuỗi thị trường có giá trị cao (HVMCs). Để thực hiện điều này, một tập dữ liệu duy nhất ở cấp độ hộ gia đình từ tổng số 1232 hộ sản xuất AIVs ở vùng nông thôn và ngoại ô đã được khảo sát, và dữ liệu thu được đã được phân tích bằng mô hình hồi quy probit đa biến. Kết quả cho thấy khoảng hai phần ba các nông hộ AIV nhỏ có truy cập vào ít nhất một trụ cột của khả năng cạnh tranh trong HVMCs. Kết quả mô hình cho thấy sự tồn tại của sự phụ thuộc lẫn nhau của các quyết định ở cấp độ hộ gia đình trong việc tiếp cận nhiều trụ cột khả năng cạnh tranh trong HVMCs. Hơn nữa, kết quả cũng tiết lộ rằng việc đối phó với các cú sốc, kết hợp với quyền tiếp cận thông tin về giá thị trường và cảnh báo về các sự kiện bất ngờ, hợp đồng canh tác, chứng nhận và công nghệ tưới tiêu hiện đại là những yếu tố chính điều chỉnh việc tiếp cận các trụ cột khả năng cạnh tranh của các nông hộ nhỏ. Việc thúc đẩy và triển khai các nền tảng hỗ trợ thông tin dựa trên điện thoại di động được xây dựng hợp lý, cũng như các chiến lược sinh kế hiệu quả và đúng đắn hỗ trợ các nông hộ nhỏ tiếp cận các trụ cột khả năng cạnh tranh là điều cực kỳ quan trọng trong việc vượt qua những rào cản khả năng cạnh tranh lớn dọc theo các chuỗi thực phẩm nông sản có giá trị cao.
#nông hộ nhỏ #khả năng cạnh tranh #chuỗi thị trường thực phẩm nông sản có giá trị cao #rau củ truyền thống châu Phi #phân tích hồi quy probit đa biến
Vai trò dẫn dắt của nhận thức: mô hình FACOPA để hiểu rõ việc thông qua đổi mới Dịch bởi AI
Tập 10 - Trang 1-19 - 2022
Yari Vecchio, Marcello De Rosa, Gregorio Pauselli, Margherita Masi, Felice Adinolfi
Trong công trình này, chúng tôi khai thác mối liên hệ giữa nhận thức về độ phức tạp và khả năng áp dụng các công cụ nông nghiệp chính xác (PATs). Nhiều nghiên cứu đã phân tích vai trò của nhận thức, chủ yếu xem xét nó như một yếu tố quyết định việc thông qua tương đương với các yếu tố bối cảnh khác. Ngược lại, nghiên cứu này đóng góp bằng cách giả định rằng độ phức tạp mà nông dân nhận thức là yếu tố chính ảnh hưởng đến xu hướng đổi mới của họ và nên được phân tích ở một cấp độ khác. Bắt đầu từ giả định này, một mô hình lý thuyết mới được đề xuất với mục tiêu nghiên cứu quá trình “các yếu tố – nhận thức về độ phức tạp – việc thông qua” (FACOPA). Để kiểm tra tính hợp lệ của giả thuyết của chúng tôi, một cuộc khảo sát được thực hiện dựa trên mẫu định hướng gồm 285 nông dân. Trước tiên, một mô hình hồi quy tuyến tính cho phép chúng tôi xác định các yếu tố quyết định nhận thức về độ phức tạp. Sau đó, một mô hình logistic đa nhánh được sử dụng để xác định những khía cạnh của độ phức tạp nhận thức có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn áp dụng các công cụ nông nghiệp chính xác của ba loại doanh nhân nông nghiệp khác nhau: người áp dụng, người không áp dụng và người lập kế hoạch. Đầu tiên, kết quả hồi quy tuyến tính cho thấy rằng các biến xã hội - cấu trúc có mối quan hệ logic với độ phức tạp mà nông dân nhận thức, với tuổi tác, quy mô trang trại, mức độ thông tin và mức độ công việc đều có ý nghĩa. Sau đó, mô hình logistic đa nhánh nhấn mạnh rằng những người không áp dụng coi hầu hết các khía cạnh của độ phức tạp là rào cản đối với việc áp dụng. Những người lập kế hoạch cho thấy nhận thức về độ phức tạp thấp hơn so với những người không áp dụng, với độ phức tạp được xác định bởi các khía cạnh tài chính và mạng lưới. Kết quả cung cấp những gợi ý thú vị cho các nhà hoạch định chính sách. Thực tế, mô hình FACOPA cung cấp cái nhìn sâu sắc về một khung can thiệp trong đó các biện pháp chính sách có thể được đa dạng hóa để phổ biến các PATs dựa trên các loại nông dân. Những người không áp dụng cần một tập hợp rộng hơn các công cụ chính sách, trong khi những người lập kế hoạch nên được khuyến khích trở thành những người áp dụng thông qua hỗ trợ tài chính và kích hoạt các mạng lưới đổi mới.
#đổi mới #nhận thức #nông nghiệp chính xác #mô hình FACOPA #áp dụng công cụ nông nghiệp
Hiệu quả phân bổ tại hộ nông dân trong sản xuất lúa ở các huyện Gulu và Amuru, miền Bắc Uganda Dịch bởi AI
- 2019
Daniel Micheal Okello, Jackline Bonabana‐Wabbi, Basil Mugonola
Tóm tắt

Nông nghiệp quy mô nhỏ, chiếm ưu thế ở Uganda, đặc trưng bởi năng suất thấp cho hầu hết các loại cây trồng, bao gồm cả lúa, loại cây đang ngày càng trở nên quan trọng như một loại thực phẩm và cây trồng tạo thu nhập. Năng suất thấp chủ yếu do thiếu hiệu quả phân bổ. Hiệu quả phân bổ (AE) xem xét khả năng của nông dân trong việc phân bổ tài nguyên một cách hiệu quả, bằng cách sản xuất ra sản lượng tối đa với chi phí tối thiểu. Tăng cường AE đòi hỏi phải hiểu rõ những nguồn gốc cụ thể của sự không hiệu quả khác nhau giữa các doanh nghiệp nông nghiệp, theo từng vùng địa lý và thời gian. Một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện tại các huyện Gulu và Amuru ở miền Bắc Uganda để đánh giá các nguồn gốc của sự không hiệu quả phân bổ ở cấp độ nông trại trong sản xuất lúa, sử dụng phương pháp biên độ ngẫu nhiên. Dữ liệu đã được thu thập từ một mẫu ngẫu nhiên gồm 200 nông dân trồng lúa quy mô nhỏ. Kết quả cho thấy AE trung bình là 75%. Quy mô hộ gia đình, khoảng cách đến trung tâm thương mại, quy mô nông trại, số lượng loại cây trồng, việc sử dụng lao động thuê, việc sử dụng cày bò, và khả năng tiếp cận tín dụng có tác động đáng kể đến AE. Chúng tôi khuyến nghị việc áp dụng các công nghệ như sử dụng cày bò và phân bổ lại tài nguyên nông trại, đặc biệt là lao động.

Đối phó với tình trạng bất an thực phẩm và dinh dưỡng tại Zimbabwe: Giới tính của người đứng đầu hộ gia đình có quan trọng không? Dịch bởi AI
Tập 7 - Trang 1-16 - 2019
Terrence Kairiza, George D. Kembo
Dựa trên một mẫu dữ liệu hộ gia đình đại diện quy mô lớn từ năm cuộc khảo sát cắt ngang được tiến hành bởi Ủy ban Đánh giá Tổn thương Zimbabwe (ZimVAC), nghiên cứu này đánh giá sự tồn tại của sự khác biệt giới tính trong độ nhạy cảm với bất an thực phẩm và dinh dưỡng, việc sử dụng các chiến lược ứng phó dựa trên tiêu dùng và sinh kế, cũng như sự tồn tại của sự khác biệt giới tính trong mối tương quan của việc sử dụng các chiến lược ứng phó này khi đối mặt với bất an thực phẩm và dinh dưỡng. Nghiên cứu đưa ra ba phát hiện chính. Thứ nhất, các hộ gia đình do nữ giới đứng đầu có mức độ dễ bị tổn thương với bất an thực phẩm và dinh dưỡng cao hơn so với các hộ gia đình do nam giới đứng đầu. Thứ hai, các hộ gia đình do nữ giới đứng đầu có khả năng cao hơn trong việc áp dụng các chiến lược ứng phó dựa trên tiêu dùng so với các hộ gia đình do nam giới đứng đầu, nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong việc sử dụng các chiến lược ứng phó dựa trên sinh kế. Cuối cùng, trong khi có ít bằng chứng về sự khác biệt giới tính trong mối tương quan của việc sử dụng các chiến lược ứng phó dựa trên tiêu dùng, có bằng chứng rõ ràng rằng các đầu hộ gia đình nữ ít có khả năng áp dụng các chiến lược ứng phó dựa trên sinh kế khi phải đối mặt với bất an thực phẩm và dinh dưỡng. Tổng thể các phát hiện này cho thấy trong khi các hộ gia đình do nữ giới đứng đầu có mức độ nhạy cảm cao hơn với bất an thực phẩm thì họ lại kém hơn trong việc sử dụng các chiến lược ứng phó dựa trên sinh kế để vượt qua tình trạng bất an thực phẩm và dinh dưỡng trong hộ gia đình.
Partnering for sustainability in agri-food supply chains: the case of Barilla Sustainable Farming in the Po Valley
Tập 7 Số 1 - 2019
Barbara Pancino, Emanuele Blasi, Anne Rappoldt, Stefano Pascucci, Luca Ruini, Cesare Ronchi
Exploring quality and its value in the Italian olive oil market: a panel data analysis
Tập 6 Số 1 - 2018
Anna Carbone, Luca Cacchiarelli, Valentina Sabbatini
Lợi ích kinh tế của quản lý chăn nuôi gia súc ở Ghana Dịch bởi AI
- 2021
Faizal Adams, Kwasi Ohene-Yankyera, Robert Aidoo, Camillus Abawiera Wongnaa
Tóm tắt

Hệ thống sản xuất gia súc nhỏ (cừu và dê) truyền thống đóng góp đáng kể vào phúc lợi kinh tế xã hội của các hộ nông dân ở miền Bắc Ghana. Ngoài việc đóng vai trò là nguồn thu nhập quan trọng, cừu và dê còn cung cấp những lợi ích không tiền tệ quan trọng như cung cấp phân bón, tiết kiệm, bảo hiểm, đa dạng hóa danh mục đầu tư nông nghiệp và các mối quan hệ xã hội mạnh mẽ. Tuy nhiên, đánh giá kỹ thuật về các hệ thống gia súc nhỏ truyền thống chủ yếu nhấn mạnh vào lợi ích tài chính cho nông dân và bỏ qua những tiện ích phi truyền thống từ hệ thống gia súc. Mục đích chính của nghiên cứu này là ước lượng các lợi ích kinh tế chung liên quan đến các hệ thống gia súc nhỏ truyền thống bằng cách tính đến cả giá trị thị trường và phi thị trường trong hai vùng sinh thái nông nghiệp (savanna Guinea và Sudan) ở miền Bắc Ghana. Sử dụng kỹ thuật lấy mẫu đa tầng, chúng tôi đã thu thập dữ liệu cắt ngang từ 249 nông dân chăn nuôi gia súc nhỏ để phân tích thực nghiệm. Kết quả cho thấy ít nhất 60% lợi ích ròng từ sản xuất cừu và dê ở miền Bắc Ghana có dạng không thể tiếp thị (không tiền mặt). Nghiên cứu chứng minh rằng hệ thống chăn nuôi thả rông truyền thống của việc quản lý cừu và dê là có tính kinh tế khi giá trị phi thị trường được tính vào phân tích kinh tế. Những phát hiện này có tác động thực tiễn trong việc cải thiện hệ thống gia súc nhỏ truyền thống nhằm tăng năng suất thịt và tạo ra thu nhập ở miền Bắc Ghana và các nơi khác ở châu Phi hạ Sahara (SSA).