Xi măng là gì? Các công bố khoa học về Xi măng
Xi măng là một vật liệu xây dựng phổ biến được sử dụng để kết dính các thành phần của công trình xây dựng như gạch, gạch vuông, gạch ốp lát, đá granit, cát, vv....
Xi măng là một vật liệu xây dựng phổ biến được sử dụng để kết dính các thành phần của công trình xây dựng như gạch, gạch vuông, gạch ốp lát, đá granit, cát, vv. Nó được sản xuất từ những nguyên liệu chính như đá vôi, đất sét và nhiên liệu như than đá hoặc dầu mỏ. Xi măng sau khi pha trộn với nước, tạo ra một chất keo thể gel dạng nhờn, sau đó khi khô sẽ tạo ra một chất rắn và cứng có khả năng liên kết mạnh mẽ với các vật liệu khác. Xi măng thường được sử dụng để tạo nên cấu trúc xây dựng như tường, sàn, móng và là một phần quan trọng của công trình xây dựng.
Xi măng là một loại vật liệu liên kết vữa sử dụng phổ biến trong xây dựng. Nó có khả năng tạo ra một liên kết mạnh mẽ giữa các vật liệu khác nhau, giúp hình thành cấu trúc xây dựng chắc chắn và bền vững.
Nguyên liệu chính để sản xuất xi măng bao gồm:
1. Đá vôi: đá vôi tồn tại trong tự nhiên dưới dạng đá vôi hoặc lưu huỳnh vôi. Đá vôi được nung ở nhiệt độ cao để chuyển đổi thành vôi sống.
2. Đất sét: đất sét chứa các hợp chất khoáng có khả năng kết dính. Đất sét được khai thác từ mỏ hoặc từ lớp đất đặc biệt.
3. Nhiên liệu: than đá hoặc dầu mỏ thường được sử dụng để nung chảy vôi sống và đất sét trong các lò nung.
Quá trình sản xuất xi măng gồm các bước chính:
1. Nghiền: Đá vôi và đất sét được nghiền thật mịn để tạo thành bột.
2. Nung chảy: Bột đá vôi và bột đất sét được trộn lại với nhau theo tỷ lệ nhất định và sau đó được nung chảy ở nhiệt độ khoảng 1.450-1.500 độ Celsius trong lò nung. Quá trình nung chảy này tạo ra clinker, một chất rắn của xi măng.
3. Xay nhỏ: Clinker được xay nhỏ thành bột xi măng mịn để tăng cường diện tích tiếp xúc của nó với nước.
4. Đóng gói: Bột xi măng được đóng gói vào bao jumbo hoặc túi xi măng, sẵn sàng để vận chuyển và sử dụng trong công trình xây dựng.
Khi sử dụng, xi măng được trộn với nước để tạo thành hỗn hợp dẻo, gọi là vữa xi măng. Khi vữa xi măng tiếp xúc với không khí, quá trình gốc giữa xi măng và nước, được gọi là xác định, xảy ra. Trong quá trình xác định, các phân tử xi măng tạo liên kết với nhau, hình thành một ma trận liên kết mạnh mẽ. Khi vữa xi măng khô, nó trở thành chất rắn và cứng, giữ lại kết cấu của công trình xây dựng.
Xi măng có một số ưu điểm như khả năng chịu lực cao, chống cháy, ít bị ảnh hưởng bởi thời tiết và tuổi thọ lâu dài. Nó cũng có thể được sử dụng để tạo thành các hỗn hợp đặc biệt như bê tông và trát gạch.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xi măng":
Mục tiêu: Bệnh nhân bị ung thư màng phổi ác tính, một loại ung thư tiến triển nhanh với thời gian sống trung bình từ 6 đến 9 tháng, trước đây đã có phản ứng kém với hóa trị. Chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm giai đoạn III để xác định liệu việc điều trị bằng pemetrexed và cisplatin có mang lại thời gian sống vượt trội so với chỉ dùng cisplatin hay không.
Phương pháp và Đối tượng: Những bệnh nhân chưa từng hóa trị và không đủ điều kiện phẫu thuật chữa bệnh được phân ngẫu nhiên để nhận pemetrexed 500 mg/m2 và cisplatin 75 mg/m2 vào ngày 1, hoặc chỉ dùng cisplatin 75 mg/m2 vào ngày 1. Cả hai phác đồ được truyền tĩnh mạch và lặp lại sau mỗi 21 ngày.
Kết quả: Tổng cộng 456 bệnh nhân được phân nhóm: 226 nhận pemetrexed và cisplatin, 222 chỉ nhận cisplatin, và tám người không hề nhận trị liệu. Thời gian sống trung bình ở nhánh pemetrexed/cisplatin là 12,1 tháng so với 9,3 tháng ở nhóm đối chứng (P = .020, kiểm định log-rank hai mặt). Tỷ lệ nguy cơ tử vong ở nhóm pemetrexed/cisplatin so với nhóm đối chứng là 0,77. Thời gian tiến triển trung bình trong nhánh pemetrexed/cisplatin dài hơn đáng kể: 5,7 tháng so với 3,9 tháng (P = .001). Tỷ lệ đáp ứng là 41,3% ở nhánh pemetrexed/cisplatin so với 16,7% ở nhóm đối chứng (P < .0001). Sau khi 117 bệnh nhân đã tham gia, axit folic và vitamin B12 được thêm vào để giảm sự độc hại, dẫn tới việc giảm độc tính đáng kể ở nhóm pemetrexed/cisplatin.
Kết luận: Việc điều trị bằng pemetrexed cộng với cisplatin và bổ sung vitamin đã mang lại thời gian sống, thời gian đến khi tiến triển, và tỷ lệ đáp ứng vượt trội so với chỉ dùng cisplatin đơn lẻ ở bệnh nhân ung thư màng phổi ác tính. Việc thêm axit folic và vitamin B12 đã giảm đáng kể độc tính mà không ảnh hưởng bất lợi tới thời gian sống.
Một vi sinh vật khử Fe(III) và Mn(IV) đã được tách ra từ trầm tích nước ngọt của sông Potomac, Maryland. Chế phẩm này được ký hiệu là GS-15, phát triển trong môi trường kị khí xác định với axetate làm chất cho electron duy nhất và Fe(III), Mn(IV) hoặc nitrat làm chất nhận electron duy nhất. GS-15 đã oxi hóa axetate thành carbon dioxide với sự khử đồng thời oxit sắt Fe(III) vô định hình thành magnetit (Fe 3 O 4 ). Khi Fe(III) citrate thay thế oxit sắt Fe(III) vô định hình như chất nhận electron, GS-15 phát triển nhanh hơn và đã khử toàn bộ Fe(III) thêm vào thành Fe(II). GS-15 đã khử oxit sắt Fe(III) vô định hình tự nhiên nhưng không khử đáng kể các dạng Fe(III) có tinh thể cao. Fe(III) được khử một cách tối ưu ở pH từ 6.7 đến 7 và ở nhiệt độ từ 30 đến 35°C. Ethanol, butyrate, và propionate cũng có thể đóng vai trò như chất cho electron trong quá trình khử Fe(III). Nhiều hợp chất hữu cơ khác và hydro không thể làm điều này. MnO 2 đã bị khử hoàn toàn thành Mn(II), gây kết tủa dưới dạng rhodochrosite (MnCO 3 ). Nitrat đã được khử thành amoniac. Oxy không thể làm chất nhận electron, và nó đã ức chế sự phát triển với các chất nhận electron khác. Đây là lần đầu tiên cho thấy rằng vi sinh vật có thể hoàn toàn oxi hóa các hợp chất hữu cơ với Fe(III) hoặc Mn(IV) làm chất nhận electron duy nhất và rằng sự oxi hóa chất hữu cơ kết hợp với sự khử Fe(III) hoặc Mn(IV) dissimilatory có thể tạo ra năng lượng cho sự phát triển của vi sinh vật. GS-15 cung cấp một mô hình cho cách mà các phản ứng xúc tác bằng enzym có thể là những cơ chế có ý nghĩa định lượng cho sự khử sắt và mangan trong môi trường kị khí.
Đã được khẳng định chắc chắn rằng sự hấp thụ nhanh chóng Ca2+ bởi ti thể từ nhiều nguồn khác nhau được điều hòa bởi một uniporter cho phép vận chuyển ion theo gradient điện hóa của nó. Nhiều cơ chế của sự vận chuyển Ca2+ ra khỏi ti thể cũng đã được thảo luận rộng rãi trong tài liệu. Ti thể được cung cấp năng lượng phải tiêu tốn một lượng năng lượng đáng kể để vận chuyển Ca2+ ngược lại so với gradient điện hóa từ không gian ma trận ra không gian bên ngoài. Hai cơ chế riêng biệt đã được phát hiện để điều hòa quá trình vận chuyển này: một trao đổi Ca2+/nNa+ và một cơ chế thoát Na(+)-độc lập. Các cơ chế thoát này được xem xét từ góc độ năng lượng có sẵn. Ngoài ra, cũng có thể xảy ra sự gia tăng tính thấm của màng trong do Ca2(+)-gây ra có tính hồi phục. Sự kích thích của quá trình chuyển đổi tính thấm này được đặc trưng bởi sự phình to của ti thể, sự rò rĩ với các ion nhỏ như K+, Mg2+, và Ca2+, và sự mất điện thế màng ti thể. Đã có đề xuất rằng sự chuyển đổi tính thấm và sự đảo ngược của nó cũng có thể hoạt động như một cơ chế thoát Ca2+ của ti thể dưới một số điều kiện nhất định. Các đặc điểm của mỗi cơ chế này được thảo luận, cũng như các chức năng sinh lý khả năng của chúng.
Các khoáng vật oxit mangan đã được sử dụng trong hàng nghìn năm—bởi người xưa để chế tạo thuốc nhuộm và làm trong suốt kính, và ngày nay là quặng mangan, xúc tác, và vật liệu cho pin. Hơn 30 khoáng vật oxit mangan xuất hiện trong nhiều bối cảnh địa chất khác nhau. Chúng là thành phần chính của các hạt mangan trải rộng trên diện tích lớn của đáy đại dương và đáy nhiều hồ nước ngọt. Các khoáng vật oxit mangan có mặt khắp nơi trong đất và trầm tích và tham gia vào nhiều phản ứng hóa học ảnh hưởng đến nước ngầm và thành phần đất. Sự xuất hiện điển hình của chúng dưới dạng hỗn hợp hạt mịn khiến việc nghiên cứu cấu trúc nguyên tử và hóa học tinh thể của chúng trở nên khó khăn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nghiên cứu sử dụng kính hiển vi điện tử truyền qua và các phương pháp nhiễu xạ tia X bột và neutron đã cung cấp những hiểu biết mới quan trọng về cấu trúc và tính chất của những vật liệu này. Cấu trúc tinh thể của todorokite và birnessite, hai trong số các khoáng vật oxit mangan phổ biến hơn trong các mỏ trên đất liền và hạt đại dương, đã được xác định bằng dữ liệu nhiễu xạ tia X bột và phương pháp tinh chỉnh Rietveld. Do các đường hầm lớn trong todorokite và các cấu trúc liên quan, có nhiều sự quan tâm trong việc sử dụng những vật liệu này và các đồng thúc đẩy tổng hợp như là xúc tác và tác nhân trao đổi cation. Các khoáng vật thuộc nhóm birnessite có cấu trúc lớp và dễ dàng trải qua các phản ứng oxy hóa khử và phản ứng trao đổi cation, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hóa học nước ngầm.
Melatonin là một chất rất hiệu quả trong việc giảm stress oxy hóa trong một số lượng lớn các trường hợp. Nó đạt được tác động này thông qua nhiều phương thức: giải độc trực tiếp các loài oxy phản ứng và các loài nitơ phản ứng, đồng thời gián tiếp kích thích các enzym chống oxy hóa và ức chế hoạt động của các enzym sinh oxy. Ngoài những tác động đã được mô tả tốt này, melatonin còn được cho là có khả năng chelate các kim loại chuyển tiếp, những kim loại tham gia vào các phản ứng Fenton/Haber–Weiss; qua đó, melatonin giảm thiểu sự hình thành gốc hydroxyl độc hại, dẫn đến giảm stress oxy hóa. Phân bố nội bào rộng khắp nhưng không đồng đều của melatonin, bao gồm nồng độ cao trong ti thể, có thể hỗ trợ khả năng của nó trong việc chống lại stress oxy hóa và hiện tượng chết tế bào. Có bằng chứng đáng tin cậy để cho rằng melatonin nên được phân loại là một chất chống oxy hóa nhắm vào ti thể. Khả năng của melatonin trong việc ngăn ngừa tổn thương do oxy hóa và suy giảm sinh lý liên quan đã được ghi chép lại trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm về thiếu máu/tái tưới máu (thiếu oxy/tái oxy hóa), đặc biệt là ở não (đột quỵ) và tim (cơn đau tim). Melatonin, thông qua các cơ chế chống gốc tự do của nó, cũng làm giảm độc tính của các loại thuốc kê đơn có hại và methamphetamine, một loại thuốc gây nghiện. Các phát hiện thực nghiệm cũng chỉ ra rằng melatonin làm cho các loại ung thư kháng trị với điều trị trở nên nhạy cảm hơn với các tác nhân điều trị khác nhau và có thể hữu ích, nhờ vào nhiều hoạt động chống oxy hóa của nó, trong việc đặc biệt trì hoãn và có thể điều trị một loạt các bệnh liên quan đến tuổi tác và các tình trạng phi nhân tính. Melatonin đã được sử dụng hiệu quả để chống lại stress oxy hóa, viêm và hiện tượng chết tế bào, cũng như phục hồi chức năng mô trong một số thử nghiệm trên người; hiệu quả của nó hỗ trợ cho việc sử dụng rộng rãi hơn trong nhiều nghiên cứu trên người. Hồ sơ an toàn rất cao của melatonin cũng củng cố kết luận này. Hiện tại, tác giả cho rằng, xét về những chức năng có lợi đa dạng rộng rãi mà melatonin đã được báo cáo, chúng có thể chỉ là những hiện tượng phụ của các hoạt động cơ bản vẫn chưa được xác định của phân tử cổ xưa này.
Việc phát triển các vật liệu xây dựng mới, bền vững và giảm CO2 là cần thiết nếu ngành công nghiệp xây dựng toàn cầu muốn giảm dấu chân môi trường của các hoạt động của mình, điều đặc biệt là từ việc sản xuất xi măng Portland. Một loại xi măng không phải Portland đang thu hút sự chú ý đặc biệt là dựa trên hóa học kiềm-aluminosilicat, bao gồm một lớp chất kết dính đã trở nên được biết đến như là địa polyme. Những vật liệu này cung cấp các tính chất kỹ thuật tương đương với xi măng Portland, nhưng với dấu chân CO2 thấp hơn nhiều và với tiềm năng cho sự ưu việt về hiệu suất so với các loại xi măng truyền thống trong một số ứng dụng đặc thù. Bài đánh giá này thảo luận về tổng hợp các chất kết dính được kích hoạt kiềm từ xỉ lò cao, đất sét nung cháy (metakaolin), và tro bay, bao gồm phân tích các cơ chế phản ứng hóa học và sự phân bố pha chất kết dính kiểm soát các đặc tính trong giai đoạn đầu và khi cứng của những vật liệu này, đặc biệt là độ thiết lập ban đầu và độ bền lâu dài. Các triển vọng cho sự phát triển nghiên cứu trong tương lai cũng được khám phá.
Màng poly-(3,4-ethylenedioxythiophene):poly(styrenesulfonic acid) (PEDOT:PSS) dẫn điện cao và trong suốt, được bổ sung chất phụ gia fluorosurfactant, đã được chế tạo cho điện cực trong suốt và co dãn. Màng PEDOT:PSS xử lý bằng fluorosurfactant thể hiện sự cải thiện 35% về điện trở tấm (
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10