Scholar Hub/Chủ đề/#vitamin d huyết thanh/
Vitamin D huyết thanh điều chỉnh sự hấp thụ canxi và phốt pho, ảnh hưởng đến sức khỏe xương, hệ miễn dịch, nồng độ insulin, và hệ thần kinh. Có hai dạng chính: Vitamin D2 và D3, được đo bằng 25(OH)D. Vitamin D có thể tổng hợp qua ánh sáng mặt trời và từ thực phẩm. Thiếu hụt vitamin D gây nhiều bệnh lý như còi xương, loãng xương, tim mạch, đái tháo đường type 2, và rối loạn tự miễn dịch. Đo lường qua xét nghiệm máu và bổ sung dưới hướng dẫn y tế là cần thiết để duy trì sức khỏe toàn diện.
Giới thiệu về Vitamin D huyết thanh
Vitamin D huyết thanh là một trong những thành phần quan trọng trong cơ thể con người, giúp điều chỉnh sự hấp thụ canxi và phốt pho. Vitamin D không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của xương mà còn ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, điều hòa nồng độ insulin, và góp phần vào sức khỏe hệ thần kinh.
Các dạng của Vitamin D huyết thanh
Vitamin D chủ yếu tồn tại dưới dạng hai chất: Vitamin D2 (ergocalciferol) và Vitamin D3 (cholecalciferol). Trong cơ thể, hai dạng này chuyển hóa thành 25-hydroxyvitamin D, còn gọi là 25(OH)D, là chỉ số chính để đo lượng vitamin D trong huyết thanh.
Nguồn cung cấp Vitamin D
Vitamin D có thể được tổng hợp tự nhiên trong da thông qua tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, đặc biệt là tia UVB. Ngoài ra, vitamin D cũng có thể được cung cấp qua chế độ ăn uống với các thực phẩm giàu vitamin D như cá hồi, cá thu, trứng, và sữa bổ sung vitamin D.
Tầm quan trọng của Vitamin D huyết thanh
Vitamin D huyết thanh đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì nồng độ canxi và phốt pho, là những khoáng chất cần thiết cho sự phát triển và bảo vệ của xương. Thiếu hụt vitamin D có thể dẫn đến các bệnh lý như còi xương ở trẻ em và loãng xương ở người lớn tuổi.
Hậu quả của thiếu hụt Vitamin D huyết thanh
Sự thiếu hụt Vitamin D huyết thanh có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe xương, thiếu hụt vitamin D còn liên quan đến một loạt các bệnh lý khác như bệnh tim mạch, đái tháo đường type 2, và các chứng rối loạn tự miễn dịch.
Cách đo lường và chuẩn đoán
Mức độ vitamin D trong huyết thanh được đánh giá thông qua xét nghiệm máu đo nồng độ 25(OH)D. Giá trị này giúp các bác sĩ đánh giá liệu một người có bị thiếu vitamin D hay không, từ đó đề xuất các biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Biện pháp bổ sung Vitamin D huyết thanh
Việc bổ sung vitamin D có thể được thực hiện thông qua các chế độ dinh dưỡng bổ sung, sử dụng thực phẩm chức năng chứa vitamin D, hoặc điều chỉnh lối sống như tăng cường tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, việc bổ sung cần được thực hiện dưới sự hướng dẫn của chuyên gia y tế để tránh các nguy cơ ngộ độc vitamin D do dư thừa.
Kết luận
Vitamin D huyết thanh là yếu tố không thể thiếu cho sức khỏe toàn diện của con người. Hiểu biết và duy trì mức độ vitamin D hợp lý thông qua chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh có thể đem lại nhiều lợi ích sức khỏe dài lâu. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, mọi biện pháp điều chỉnh và bổ sung vitamin D nên được tham khảo ý kiến chuyên gia y tế.
Nghiên cứu nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh trước và sau điều trị và mối liên quan của chúng với biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân trứng cá thông thường mức độ trung bình và nặng Mục tiêu: Xác định nồng độ vitamin D (Vit D) và IL-17 huyết thanh ở bệnh nhân trứng cá thông thường (TCTT) mức độ trung bình và nặng trước và sau điều trị bằng uống isotretinoin và vitamin D; phân tích mối liên quan của chúng với biểu hiện lâm sàng của bệnh. Đối tượng và phương pháp: 70 bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh và 70 người đối chứng khoẻ mạnh. Phương pháp tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chứng. Kết quả: Nồng độ vitamin D và IL-17 ở bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với người khoẻ mạnh đối chứng và liên quan có ý nghĩa thống kê với giới tính, độ tuổi, thói quen sử dụng kem chống nắng, nhưng không khác biệt theo mức độ nặng của bệnh trứng cá. Sau điều trị, nồng độ Vit D huyết thanh tăng và IL-17 huyết thanh giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị ở cả nhóm sử dụng isotretinoin phối hợp vitamin D đường uống lẫn nhóm chỉ sử dụng isotretinoin đơn thuần, tuy nhiên không có sự khác biệt khi so sánh 2 nhóm này sau điều trị với nhau. Kết luận: Nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh ở bệnh nhân TCTT mức độ trung bình và nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm người khoẻ mạnh. Có sự thay đổi nồng độ vitamin D và IL-17 huyết thanh trước và sau điều trị với Isotretinoin và vitamin D đường uống.
#Bệnh trứng cá thông thường #vitamin D #IL-17
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D3 (25-OH) HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐAU CỘT SỐNG THẮT LƯNG MẠN TÍNHMục tiêu: Mô tả hình ảnh siêu âm Doppler xuyên sọ (TCD) trong chẩn đoán dị dạng thông động-tĩnh mạch não (AVM) ở bệnh nhân chảy máu não do vỡ dị dạng thông động-tĩnh mạch não. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán là dị dạng thông động-tĩnh mạch não có biến chứng chảy máu có làm siêu âm Doppler xuyên sọ được điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai từ 10/2019 đến 07/2021. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân AVM vỡ là 43±14,7 tuổi, tỷ lệ nam/nữ = 1,27/1. Bệnh nhân vào viện vì buồn nôn, nôn chiếm tỷ lệ 97,2%, đau đầu chiếm 94,4%, liệt nửa người chiếm 50%. TCD phát hiện động mạch nuôi ổ dị dạng so với phương pháp chụp mạch đạt 65%. Nguồn cấp máu cho ổ dị dạng từ động mạch não giữa chiếm 52,78%. Ổ dị dạng được nuôi bằng 1 đến 3 cuống nuôi (chiếm 91,67%), ổ dị dạng có một tĩnh mạch dẫn lưu duy nhất chiếm 72,2% và là những ổ dễ vỡ. Tỷ lệ phát hiện được dị dạng động mạch não giữa trên siêu âm Doppler xuyên sọ chiếm 89,47%. Siêu âm Doppler xuyên sọ có tỷ lệ phát hiện ổ dị dạng có kích thước trung bình và lớn lần lượt là 93,75% và 100%. Tốc độ dòng chảy bên nuôi ổ dị dạng của động mạch não giữa có tốc độ tăng hơn bên đối diện. Kết luận: Độ tuổi hay gặp nhất của các bệnh nhân AVM vỡ là trên 40 tuổi chiếm tỷ lệ 63,9%; tuổi trung bình 43 ± 14,7. Bệnh gặp ở cả hai giới với tỷ lệ nam/nữ là 1,27/1. Động mạch não giữa tham gia cấp máu cho ổ dị dạng chiếm 52,78%. TCD là phương pháp hữu ích để chẩn đoán các dị dạng thông động tĩnh mạch não nó có độ nhạy cao với các AVM có kích thước trung bình và lớn.
#Dị dạng thông động tĩnh mạch não vỡ #siêu âm Doppler xuyên sọ
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D3 (25-OH) HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐAU CỘT SỐNG THẮT LƯNG MẠN TÍNHMục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tình trạng thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh ở bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có so sánh nội nhóm trên 82 bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính. Kết quả: Tỷ lệ nữ/nam là 2,9/1; tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 67,6 ± 12,7 tuổi. Nồng độ Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh trung bình là 19,8 ± 7,7 ng/ml; trong đó tỷ lệ bệnh nhân thiếu nặng chiếm 53,7% và thiếu vừa là 39,0%. Mức độ thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05 bao gồm: giới tính, tình trạng hút thuốc lá, tình trạng uống rượu (ở nam giới), triệu chứng yếu cơ trên lâm sàng, mức độ hạn chế sinh hoạt (chỉ số Oswestry), giảm mật độ xương cột sống ở nữ giới. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tình trạng thiếu Vitamin D3 (25-OH) huyết thanh ở bệnh nhân đau cột sống thắt lưng mạn tính rất phổ biến và có liên quan với một số triệu chứng cơ năng của bệnh.
#vitamin D #đau cột sống thắt lưng
Đánh giá mối liên hệ giữa mức vitamin D3, hormone cận giáp, và protein phản ứng C trong huyết thanh ở bệnh nhân có cơn tâm thần cấp tính: một nghiên cứu cắt ngang tại trung tâm tuyến ba ở Iran Dịch bởi AI BMC Psychiatry - Tập 23 - Trang 1-9 - 2023
Tác động lớn của vitamin D đối với sự phát triển não bộ và mối quan hệ của nó với các dấu hiệu viêm trong quá trình lâm sàng của các rối loạn tâm thần đã buộc các nhà nghiên cứu phải điều tra mối liên hệ tiềm năng giữa mức độ vitamin D, mức độ protein phản ứng C (CRP) và tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhằm so sánh các mức vitamin D trong huyết thanh và các dấu hiệu liên quan, bao gồm canxi, photpho và hormone cận giáp (PTH), cùng với CRP, ở 3 nhóm bệnh nhân có các cơn tâm thần cấp tính, bao gồm tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, và rối loạn tâm thần do ma túy methamphetamine, so với nhóm điều khiển chuẩn của dân số Iran. Nghiên cứu mô tả cắt ngang này được tiến hành tại một bệnh viện tâm thần ở Tehran, Iran, với tổng cộng 185 đối tượng. Các đối tượng bao gồm bốn nhóm: giai đoạn cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt (n = 49), các cơn hưng cảm cấp tính của rối loạn lưỡng cực (n = 43), rối loạn tâm thần do methamphetamine gây ra (n = 46), và nhóm đối chứng (n = 47). Trong số 138 bệnh nhân có cơn tâm thần cấp tính, 33 bệnh nhân đang ở cơn tâm thần đầu tiên, trong khi 105 bệnh nhân đang trong cơn kịch phát cấp tính của các rối loạn tâm thần mạn tính. Thang đo Đánh giá Tâm thần Ngắn (BPRS) đã được một bác sĩ tâm thần chuyên môn thực hiện cho tất cả bệnh nhân. Sau đó, mức độ canxi, photpho, hormone cận giáp, vitamin D và CRP trong huyết thanh đã được đánh giá ở tất cả các nhóm nghiên cứu. Trong 185 đối tượng nghiên cứu, quan sát cho thấy những người có trình độ học vấn cao hơn và những người đã kết hôn có tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần thấp hơn. Trong tất cả các nhóm bệnh nhân, các mức CRP trong huyết thanh cao hơn một cách đáng kể, và các mức PTH thấp hơn một cách đáng kể so với nhóm kiểm soát (p < 0.001). Các mức canxi, photpho, và vitamin D trong huyết thanh không khác biệt một cách có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm bệnh nhân và nhóm đối chứng của nghiên cứu. Ở những bệnh nhân tâm thần mạn tính, mức CRP cao hơn một cách đáng kể (p < 0.031), và mức vitamin D thấp hơn một cách đáng kể (p < 0.044) so với những bệnh nhân có cơn tâm thần lần đầu. Nghiên cứu này gợi ý rằng mức CRP cao hơn một cách đáng kể và mức PHT thấp hơn một cách đáng kể ở những bệnh nhân tâm thần cấp tính. Hơn nữa, mức vitamin D thấp hơn một cách đáng kể ở những bệnh nhân tâm thần mạn tính so với bệnh nhân có cơn tâm thần lần đầu.
#vitamin D #hormone cận giáp #protein phản ứng C #tâm thần phân liệt #rối loạn lưỡng cực #rối loạn tâm thần do methamphetamine #nghiên cứu cắt ngang
NỒNG ĐỘ VITAMIN B12 TRONG HUYẾT THANH BỆNH NHÂN MÀY ĐAY MẠN TÍNH TỰ PHÁMục tiêu: Xác định nồng độ vitamin B12 toàn phần và vitamin B12 dạng hoạt động (holotranscobalamin – holoTC) trong huyết thanh của bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát tại khu vực TP.Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2020 đến tháng 06/2020 bằng phương pháp mô tả, cắt ngang có so sánh với nhóm đối chứng. Tổng số có 56 mẫu máu được thu thập từ 45 bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát và 11 người khỏe mạnh được định lượng nồng độ vitamin B12 toàn phần và vitamin B12 dạng hoạt động bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát quang (ECLIA), sử dụng thang điểm UAS4 để đánh giá hoạt độ bệnh trong 4 ngày liên tiếp
Kết quả: Nồng độ vitamin B12 toàn phần trong nhóm bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát là 478,4 pmol/L (khoảng tứ phân vị 404 - 579,7) và nhóm người khỏe mạnh là 719,7 pmol/L (khoảng tứ phân vị 615,9 - 815,4). Nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC), trong nhóm bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát và nhóm người khỏe mạnh lần lượt là 83,8 pmol/L (khoảng tứ phân vị 64,1 - 156) và 155,3 pmol/L (khoảng tứ phân vị 105,1 - 187). Có mối tương quan âm, mức độ mạnh giữa nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) và các nhóm điểm hoạt độ mày đay UAS4 (hệ số tương quan Spearman -0,58, p<0,001).
Kết luận: Nồng độ vitamin B12 toàn phần và nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) đều thấp hơn so với nhóm người khỏe mạnh. Đặc biệt, có mối tương quan âm, mức độ mạnh giữa nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) và điểm hoạt độ mày đay.
Thời gian nhận bài: 23/02/2022Ngày phản biện: 12/03/2022Ngày được chấp nhận: 20/03/2022
#mày đay mạn tính tự phát #vitamin B12 #vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) #điểm hoạt độ mày đay
5. KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ VITAMIN D HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI LỌC MÀNG BỤNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THỐNG NHẤT ĐỒNG NAIMở đầu: Lọc màng bụng là phương pháp điều trị thay thế thận được bệnh nhân tự thực hiện ngoại trú tại nhà. Vitamin D có vai trò quan trọng đối với sức khỏe con người. Thiếu vitamin D liên quan đến chức năng nhiều cơ quan trong cơ thể như nhận thức, miễn dịch, tim mạch và nội tiết. Thiếu vitamin D làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh thận mạn giai đoạn cuối, liên quan đến tỉ lệ sống còn của bệnh nhân, gây ra hàng loạt rối loạn xương, bất thường chất khoáng và vôi hóa mạch máu.
Mục tiêu: Xác định nồng độ, tỉ lệ thiếu vitamin D huyết thanh và mối liên quan giữa thiếu vitamin D huyết thanh với một số yếu tố ở bệnh nhân lọc màng bụng.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Nồng độ Vitamin D trung bình ở bệnh nhân LMB là 20,29 ± 7,98 ng/ml, thấp nhất là 1,69 ng/ml và cao nhất là 47,17 ng/ml. Tỉ lệ thiếu vitamin D là 94,59 %. Nồng độ vitamin D và Albumin máu có mối tương quan thuận với nhau (r = 0,48 và p < 0,001). Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ vitamin D và PTH máu ( r = - 0,25 và p < 0,05). Không có mối liên quan giữa nồng độ vitamin D với tuổi, BMI, thời gian LMB, Hb, Calci, phospho và Protein máu.
Kết luận: Tỉ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân LMB rất cao, đa số bệnh nhân thiếu vitamin D đều có đau cơ và chuột rút. Sự giảm Albumin và tăng PTH máu có liên quan với tình trạng thiếu vitamin D.
#Suy thận mạn giai đoạn cuối #lọc màng bụng #nồng độ vitamin D.
Tác động của các yếu tố lối sống đến nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết thanh: một nghiên cứu cắt ngang ở phụ nữ Nhật Bản từ 19–25 tuổi Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 27 - Trang 682-688 - 2009
Nồng độ 25-hydroxyvitamin D [25(OH)D] huyết thanh không đủ dẫn đến mật độ khoáng xương (BMD) thấp do làm tăng nồng độ hormone cận giáp intact (PTH) trong huyết thanh, và có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao. Do đó, nồng độ 25(OH)D được sử dụng như một chỉ số của sự mỏng manh ở người cao tuổi. Để đạt được nồng độ 25(OH)D huyết thanh cao hơn, việc quản lý thói quen lối sống và bổ sung dinh dưỡng là rất quan trọng ngay từ những năm tháng trẻ. Nghiên cứu này đánh giá mức độ liên quan giữa nồng độ 25(OH)D huyết thanh và các yếu tố lối sống ở phụ nữ Nhật Bản trẻ. Một nghiên cứu đoàn hệ đã được thực hiện từ tháng 12 năm 2003 và khảo sát kết thúc vào tháng 2 năm 2004. Đối tượng là 274 phụ nữ Nhật Bản từ 19–25 tuổi. Các tham số được đánh giá ở những đối tượng này bao gồm: (1) nồng độ huyết thanh của 25(OH)D, PTH intact, canxi và photpho; (2) BMD ở cột sống thắt lưng và hông; và (3) các yếu tố lối sống (bổ sung dinh dưỡng, hoạt động thể chất và thời gian tiếp xúc với ánh sáng mặt trời). Nồng độ 25(OH)D huyết thanh có liên quan tiêu cực với mức PTH intact (Spearman; r = -0.17, P = 0.006). BMD cao hơn đáng kể ở nhóm có 25(OH)D cao và PTH intact thấp so với nhóm còn lại (P < 0.05). Nồng độ 25(OH)D huyết thanh có mối tương quan đáng kể với lượng vitamin D bổ sung hàng ngày (r = 0.20, P = 0.001), số bước đi trung bình mỗi ngày (r = 0.16, P = 0.010) và thời gian hoạt động tĩnh trung bình (r = -0.14, P = 0.018) trong số các yếu tố lối sống được đánh giá. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy mức độ liên quan giữa các yếu tố lối sống và 25(OH)D huyết thanh là nhỏ (R² = 0.084). Lượng vitamin D bổ sung hàng ngày và việc đi bộ hàng ngày có thể hữu ích cho việc tăng nồng độ 25(OH)D huyết thanh ở phụ nữ Nhật Bản trẻ.
#25-hydroxyvitamin D #hormone cận giáp #mật độ khoáng xương #lối sống #phụ nữ Nhật Bản
Nồng độ 1,25-dihydroxy vitamin D trong huyết thanh có mối liên hệ nghịch với chỉ số khối cơ thể Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - - 2008
Dựa trên các nghiên cứu in vitro, có giả thuyết rằng 1,25-dihydroxy vitamin D (1,25-vit D) có thể thúc đẩy tăng cân ở người, nhưng các nghiên cứu trước đó đã cho thấy các kết quả mâu thuẫn về mối liên hệ giữa nồng độ 1,25-vit D trong huyết thanh và chỉ số khối cơ thể (BMI). Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá mối quan hệ giữa nồng độ 1,25-vit D trong huyết thanh và BMI. Hai ngàn một trăm tám mươi bảy đối tượng, được tuyển chọn từ một phòng khám quản lý lối sống chuyển hóa và y tế, đã được đưa vào một nghiên cứu cắt ngang. BMI, 25-hydroxy vitamin D (25-OH-vit D) và 1,25-vit D được đo. Đối tượng được chia thành năm nhóm dựa theo BMI (<25, 25–29.9, 30–34.9, 35–39.9 và >39.9 kg/m2). Các phân tích thống kê được thực hiện bằng các mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Tuổi và giới tính được sử dụng làm các biến giải thích ngoài. Với mỗi nhóm BMI tăng lên, nồng độ cả 25-OH-vit D và 1,25-vit D trong huyết thanh đều giảm đáng kể (P < 0.001). Những người có BMI > 39.9 kg/m2 có nồng độ 25-OH-vit D trong huyết thanh thấp hơn 24% và nồng độ 1,25-vit D thấp hơn 18% so với những người có BMI < 25 kg/m2. Có mối liên hệ nghịch giữa BMI và nồng độ 25-OH-vit D cũng như 1,25-vit D trong huyết thanh. Điều này cho thấy rằng khả năng nồng độ cao của 1,25-vit D trong tuần hoàn góp phần vào sự phát triển của béo phì là rất thấp.
#1 #25-dihydroxy vitamin D #chỉ số khối cơ thể #25-hydroxy vitamin D #huyết thanh #béo phì
Mối liên hệ giữa α-tocopherol huyết thanh với hormone steroid giới tính và tương tác với việc hút thuốc: Ý nghĩa đối với nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt Dịch bởi AI Cancer Causes & Control - Tập 22 - Trang 827-836 - 2011
Vitamin E có thể có tác dụng bảo vệ chống lại ung thư tuyến tiền liệt, có thể chỉ ở những người hút thuốc và, theo giả thuyết của chúng tôi, thông qua sự thay đổi hormone steroid giới tính. Một thử nghiệm có kiểm soát trên những người hút thuốc cho thấy rằng mức hormone giới tính có mối tương quan nghịch với α-tocopherol huyết thanh ban đầu và giảm trong phản ứng với việc bổ sung vitamin E. Mối quan hệ giữa vitamin E và hormone chưa được nghiên cứu nhiều ở những người không hút thuốc. Mức hormone steroid giới tính và α-tocopherol đã được đo ở 1.457 nam giới trong nghiên cứu NHANES III. Nồng độ hormone trung bình đã điều chỉnh đa biến theo từng nhóm α-tocopherol được ước lượng. Chúng tôi quan sát thấy nồng độ testosterone, estradiol và SHBG trung bình giảm khi mức α-tocopherol huyết thanh tăng lên (Q1 = 5.5 và Q5 = 4.6 ng/ml, p-trend = 0.0007; Q1 = 37.8 và Q5 = 33.1 pg/ml, p-trend = 0.02; Q1 = 38.8 và Q5 = 30.6 pg/ml, p-trend = 0.05, tương ứng). Các tương tác giữa α-tocopherol huyết thanh và việc tiếp xúc với khói thuốc lá đối với testosterone tổng, estradiol tổng và SHBG được tìm thấy với mối quan hệ nghịch chỉ được quan sát ở những người hút thuốc. Kết quả từ nghiên cứu cắt ngang đại diện quốc gia này chỉ ra một mối liên hệ nghịch giữa α-tocopherol huyết thanh và testosterone, estradiol và SHBG lưu hành, nhưng chỉ ở những nam giới hút thuốc. Các phát hiện của chúng tôi hỗ trợ vitamin E có ảnh hưởng chọn lọc đến hormone giới tính ở những người hút thuốc và cung cấp các cơ chế khả thi thông qua đó vitamin E có thể tác động đến nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
#Vitamin E #α-tocopherol #hormone steroid giới tính #hút thuốc #ung thư tuyến tiền liệt
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ VITAMIN D HUYẾT THANH VỚI HÀNH VI TRÁNH NẮNG VÀ SỬ DỤNG KEM CHỐNG NẮNG Mục tiêu nghiên cứu:
Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ vitamin D huyết thanh với hành vi tránh nắng và sự thay đổi nồng độ vitamin D huyết thanh sau khi sử dụng kem chống nắng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là sinh viên và học viên sau đại học Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 là nghiên cứu cắt ngang, khảo sát mối liên quan giữa nồng độ vitamin D huyết thanh với các hành vi tránh nắng. Giai đoạn 2 là nghiên cứu can thiệp, đối tượng nghiên cứu được sử dụng kem chống nắng SPF50+ trong 3 tháng và đánh giá sự thay đổi nồng độ vitamin D huyết thanh.
Kết quả nghiên cứu:
Giai đoạn 1 có 110 người tham gia. Nồng độ vitamin D huyết thanh trung bình là 22,82 ± 5,73 ng/mL. Tỉ lệ người thiếu vitamin D là 31,8%. Tỉ lệ thiếu vitamin D ở nhóm nữ (46,3%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tỉ lệ thiếu vitamin D ở nam (46,3% so với 23,2%; p = 0,01). Nồng độ vitamin D huyết thanh ở người thường xuyên ở trong bóng râm thấp hơn so với người không thường xuyên ở trong bóng râm (p = 0,039). Giai đoạn 2 có 69 người tham gia. Sau 3 tháng sử dụng kem chống nắng, nồng độ vitamin D huyết thanh ở nữ thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với trước khi sử dụng (p = 0,003).
Kết luận:
Người có thói quen đứng trong bóng râm có nồng độ vitamin D huyết thanh thấp hơn. Ở nữ, việc sử dụng kem chống nắng có thể liên hệ đến sự giảm nồng độ vitamin D huyết thanh.
Thời gian nhận bài: 01/10/2022Ngày phản biện: 21/10/2022Ngày được chấp nhận: 02/11/2022