Thảo dược là gì? Các công bố khoa học về Thảo dược
Thảo dược là các loại thực vật được sử dụng trong việc chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe và cải thiện chất lượng cuộc sống. Thảo dược có thể sử dụng dưới nhiều hình th...
Thảo dược là các loại thực vật được sử dụng trong việc chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe và cải thiện chất lượng cuộc sống. Thảo dược có thể sử dụng dưới nhiều hình thức như dược liệu tươi, khô, nấm, cây cỏ, hạt, rễ, lá hoặc hoa... Các loại thảo dược thường được sử dụng trong y học cổ truyền và y học thảo dược để điều trị hoặc điều chỉnh các triệu chứng bệnh. Ngoài ra, thảo dược cũng được sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm, thực phẩm bảo vệ sức khỏe và là thành phần trong một số loại thuốc làm từ thực vật.
Thảo dược là tập hợp các loại cây, cỏ, hoa, hạt, rễ, hành tinh và một số họ hàng thực vật khác, có tác dụng điều trị hoặc cải thiện sức khỏe của con người. Thảo dược đã được sử dụng từ hàng ngàn năm trước đây và là một phần quan trọng của y học cổ truyền ở nhiều nền văn hóa.
Các loại thảo dược khác nhau có các thành phần hoá học độc đáo và có tác dụng khác nhau. Ví dụ, cây tía tô có tác dụng chống viêm và giảm đau, cây tràm đen có công dụng làm dịu da và giảm viêm, cây húng quế có khả năng cung cấp năng lượng và tăng cường hệ miễn dịch.
Thảo dược có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Nó có thể được sử dụng tươi, khô, nghiền thành dạng bột hoặc pha trà. Ngoài ra, thảo dược cũng có thể được sử dụng trong dạng đóng viên, chiết xuất, dầu hoặc kem để sử dụng bên ngoài hoặc bôi lên da.
Thảo dược thường được sử dụng để điều trị hoặc kiểm soát các triệu chứng bệnh của cơ thể. Ví dụ, cây đinh hương có thể được sử dụng để làm giảm đau và co cứng cơ, cây cỏ ba lá và cây lô hội có thể được sử dụng để làm giảm sưng viêm và lành vết thương. Ngoài ra, thảo dược cũng có thể được sử dụng để đảm bảo sức khỏe tổng quát, bồi bổ cơ thể và cải thiện chất lượng giấc ngủ.
Tuy nhiên, việc sử dụng thảo dược cần phải được cân nhắc cẩn thận vì không phải loại thảo dược nào cũng an toàn và phù hợp với mọi người. Cần tìm hiểu kỹ về các loại thảo dược, cách sử dụng và liều lượng thích hợp, cũng như nên tham khảo ý kiến của chuyên gia y tế trước khi sử dụng.
Thảo dược là một hình thức y học tự nhiên dựa trên sử dụng các thành phần từ thiên nhiên để điều trị và duy trì sức khỏe. Nó bao gồm sự sử dụng các loại cây, rễ, lá, hoa, hạt, thảo mộc, nấm, rêu và cả các loại hướng dẫn sử dụng chính xác để tận dụng các chất chữa bệnh có trong thảo dược.
Công dụng và tác dụng của thảo dược sẽ phụ thuộc vào thành phần hoá học và các hợp chất sinh học mà chúng có. Một số thảo dược có thể có tác dụng chống vi khuẩn, chống vi rút hoặc kháng nấm, trong khi những loại khác có công dụng chống viêm, làm giảm đau, làm dịu và cân bằng hệ thống cơ thể.
Thảo dược có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, bao gồm:
1. Đun sôi: Thảo dược có thể được đun sôi trong nước, tạo thành các loại thảo dược nóng để uống.
2. Làm chè: Thảo dược có thể được sử dụng để pha chè, tạo ra các loại đồ uống có tác dụng chữa bệnh.
3. Chiết xuất: Thảo dược có thể được chiết xuất thành dạng nước, dầu hoặc chất lỏng để sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm hoặc các sản phẩm y tế.
4. Dùng ngoài da: Một số loại thảo dược được sử dụng trong các bài thuốc làm mát da, dầu xoa bóp hoặc kem dưỡng da.
Thảo dược được sử dụng trong nhiều lĩnh vực điều trị và phòng bệnh, bao gồm:
- Y học cổ truyền: Thảo dược đã được sử dụng từ hàng ngàn năm trong y học truyền thống của nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm y học Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập và nhiều vùng đất khác.
- Y học hiện đại: Một số thành phần từ thảo dược đã được sử dụng trong các thuốc hiện đại để điều trị các bệnh như tiểu đường, ung thư hoặc bệnh tim mạch.
- Sản phẩm chăm sóc sức khỏe và làm đẹp: Thảo dược cũng được sử dụng trong sản phẩm chăm sóc sức khỏe và làm đẹp như mỹ phẩm, chăm sóc da tự nhiên và các sản phẩm tắm.
Tuy nhiên, việc sử dụng thảo dược cũng cần được thực hiện cẩn thận. Cần tìm hiểu về các loại thảo dược, tác dụng và tương tác với thuốc khác để tránh các tác dụng phụ không mong muốn. Ngoài ra, việc tìm sự tư vấn từ các chuyên gia y học hay bác sĩ trước khi sử dụng thảo dược cũng là điều quan trọng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thảo dược":
Xác định các yếu tố tiên đoán tử vong do bệnh tim mạch (CVD) ở nam giới có và không có bệnh tiểu đường và đánh giá ảnh hưởng độc lập của bệnh tiểu đường lên nguy cơ tử vong do CVD.
Các đối tượng tham gia trong nghiên cứu theo kiểu đoàn hệ này đã được sàng lọc từ năm 1973 đến năm 1975; tình trạng sống đã được xác định trong khoảng thời gian trung bình 12 năm theo dõi (từ 11–13 năm). Tổng cộng có 347,978 nam giới trong độ tuổi từ 35 đến 57, được sàng lọc tại 20 trung tâm cho thử nghiệm MRFIT. Biện pháp kết quả là tỷ lệ tử vong do CVD.
Trong số 5163 nam giới báo cáo đã sử dụng thuốc điều trị bệnh tiểu đường, đã có 1092 ca tử vong (603 ca tử vong do CVD) xảy ra trong thời gian theo dõi trung bình 12 năm. Trong số 342,815 nam giới không sử dụng thuốc tiểu đường, đã xác định được 20,867 ca tử vong, trong đó có 8965 trường hợp được xác định là tử vong do CVD. Nguy cơ tuyệt đối của tử vong do CVD cao hơn nhiều đối với nam giới tiểu đường so với nam giới không tiểu đường cho mọi nhóm tuổi, nguồn gốc dân tộc, và mức độ nguy cơ – tổng thể cao gấp ba lần, sau khi điều chỉnh theo độ tuổi, chủng tộc, thu nhập, mức cholesterol huyết thanh, huyết áp tâm thu (sBP) và số lượng thuốc lá đã báo cáo mỗi ngày (P < 0.0001). Đối với cả nam giới có và không có bệnh tiểu đường, mức cholesterol huyết thanh, sBP và thói quen hút thuốc lá là các yếu tố tiên đoán đáng kể tỷ lệ tử vong do CVD. Đối với nam giới tiểu đường có giá trị cao hơn cho từng yếu tố nguy cơ và sự kết hợp của chúng, nguy cơ tuyệt đối tử vong do CVD tăng nhanh hơn so với nam giới không tiểu đường, khiến cho nguy cơ thừa tuyệt đối cho nam giới tiểu đường ngày càng lớn hơn so với nam giới không tiểu đường có mức độ yếu tố nguy cơ cao hơn.
Các loại thảo dược y học của Ấn Độ được sử dụng trong hệ thống y khoa truyền thống Ayurvedic để điều trị bệnh tiểu đường là nguồn tài nguyên quý giá cho các tác nhân chống tiểu đường mới. Các chất ức chế α-amylase tụy có thể cung cấp một chiến lược hiệu quả để giảm mức đường huyết sau bữa ăn thông qua việc kiểm soát quá trình phân giải tinh bột. Trong nghiên cứu này, mười bảy loại thảo dược y học của Ấn Độ có đặc tính hạ đường huyết đã được tiến hành chiết xuất dung môi tuần tự và thử nghiệm khả năng ức chế α-amylase, nhằm đánh giá và xác định tiềm năng ức chế của chúng đối với α-amylase tụy lợn (PPA). Phân tích hóa học sơ bộ của các chiết xuất dẫn đầu đã được thực hiện nhằm xác định các thành phần khả thi.
Phân tích 126 chiết xuất, thu được từ 17 loại thực vật (
Trong số 126 chiết xuất thu được từ 17 loại thực vật, 17 chiết xuất thể hiện tiềm năng ức chế PPA với mức độ biến đổi (10%-60.5%) trong khi 4 chiết xuất cho thấy sự ức chế thấp (< 10%). Tuy nhiên, hoạt tính ức chế α-amylase tụy lợn mạnh mẽ (> 50%) đã được thu được từ 3 chiết xuất isopropanol. Tất cả 3 chiết xuất này đều thể hiện sự ức chế phụ thuộc vào nồng độ với giá trị IC50,
Nghiên cứu này khẳng định việc sử dụng các loại thảo mộc này cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm xác định tiềm năng của chúng trong quản lý bệnh tiểu đường loại 2. Kết quả cho thấy rằng các chiết xuất từ
Y học truyền thống là một thành phần quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của hầu hết các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, kiến thức bản địa về các loại thuốc thảo dược của nhiều nền văn hóa ở Ghana vẫn chưa được nghiên cứu. Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là tài liệu hóa các loại thuốc thảo dược được các thầy thuốc truyền thống sử dụng để điều trị và quản lý các bệnh tật và triệu chứng ở một số cộng đồng sống tại Ghana. Nghiên cứu được thực hiện ở tám cộng đồng ở miền Nam Ghana. Dữ liệu được thu thập từ 45 thầy thuốc bằng bảng hỏi ethnobotanical và các mẫu vật được thu thập. Tổng cộng có 52 loài thực vật thuộc 28 họ thực vật được báo cáo là được sử dụng trong điều trị và quản lý 42 bệnh và triệu chứng. Các loại thảo dược thường được thu hái từ tự nhiên và các khu vực thấp bị suy thoái vào buổi sáng từ đất sét. Thuốc thảo được chuẩn bị dưới dạng sắc (67%) và ngâm (33%). Hình thức sử dụng miệng của thuốc thảo là cách dùng phổ biến nhất (77%) trong khi các cách dùng ít được sử dụng nhất là qua mũi (1%) và trực tràng (2%). Kết quả của nghiên cứu cho thấy các loại thuốc thảo dược được sử dụng để điều trị và quản lý cả các bệnh lý phổ biến và chuyên biệt ở con người và các yếu tố về địa điểm và thời gian được coi là quan trọng trong việc thu hái thực vật để điều trị.
Các phương pháp điều trị chính trong bệnh Alzheimer (AD) bao gồm các chất ức chế cholinesterase và antagonists của thụ thể NMDA, mặc dù vẫn còn những nghi ngờ về hiệu quả điều trị của các loại thuốc này. Các sản phẩm đông y đã được sử dụng trong việc điều trị các triệu chứng hành vi và tâm lý của sa sút trí tuệ (BPSD) nhưng với các phản ứng khác nhau. Mục tiêu của bài viết này là xem xét các bằng chứng từ các nghiên cứu có kiểm soát để xác định xem các loại thảo mộc có thể hữu ích trong việc điều trị các rối loạn nhận thức ở người cao tuổi hay không. Các nghiên cứu kiểm soát ngẫu nhiên đánh giá AD ở những cá nhân trên 65 tuổi đã được xác định thông qua việc tìm kiếm trên MEDLINE, LILACS, Thư viện Cochrane, Tóm tắt luận văn (Mỹ), Cơ sở dữ liệu Các thử nghiệm lâm sàng về Bệnh Alzheimer (ADEAR), Đăng ký Nghiên cứu Quốc gia, Các thử nghiệm có kiểm soát hiện tại, Cơ sở dữ liệu Thử nghiệm Centerwatch và Các bài báo Tạp chí PsychINFO. Việc tìm kiếm đã kết hợp các thuật ngữ bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ, rối loạn nhận thức, thảo dược, liệu pháp thảo dược. Kết quả chéo đã được đánh giá bằng thang đo của Jadad. Tổng quan có hệ thống đã xác định được hai loại thảo dược và các công thức thảo dược có tác dụng điều trị cho bệnh AD:
Khám phá mối liên hệ giữa bệnh răng miệng với sự sa sút trí tuệ hoặc giảm nhận thức trong một nhóm người mắc bệnh tiểu đường type 2.
Tổng cộng có 11.140 nam và nữ trong độ tuổi từ 55–88 tham gia vào cuộc nghiên cứu khi bắt đầu với bệnh tiểu đường type 2 đã thực hiện một cuộc kiểm tra y tế ban đầu, trong đó họ báo cáo số lượng răng tự nhiên và số ngày chảy máu lợi. Bệnh sa sút trí tuệ và giảm nhận thức được xác định định kỳ trong quá trình theo dõi 5 năm.
So với nhóm có số lượng răng nhiều nhất (từ 22 răng trở lên), việc không có răng đã liên quan đến nguy cơ cao nhất đối với cả bệnh sa sút trí tuệ (tỷ lệ nguy cơ; khoảng tin cậy 95%: 1.48; 1.24, 1.78) và giảm nhận thức (1.39; 1.21, 1.59). Số ngày chảy máu lợi không có liên quan đến những kết quả này.
Việc mất răng liên quan đến nguy cơ gia tăng đối với cả bệnh sa sút trí tuệ và giảm nhận thức.
Nhiều bệnh nhân đang sử dụng các liệu pháp thảo dược. Mặc dù thảo dược là sản phẩm tự nhiên, nhưng chúng thường hoạt động giống như thuốc và có thể tương tác hoặc làm tăng hiệu quả của các loại thuốc khác. Trong quá trình đánh giá trước phẫu thuật, các y tá nên hỏi bệnh nhân về việc sử dụng các liệu pháp thảo dược. Một số loại thảo dược có thể gây nguy hiểm và không bao giờ nên dùng, trong khi những loại khác cần được tránh trước khi phẫu thuật lựa chọn. Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe trong giai đoạn phẫu thuật ngày nay cần nắm vững thông tin cơ bản về thảo dược để thực hiện các đánh giá kỹ lưỡng. Đôi khi, nhân viên chăm sóc may mắn cần phải giáo dục và tư vấn cho người tiêu dùng về lợi ích và các khía cạnh có hại của các chế phẩm thảo dược.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo bộ gen diệp lục hoàn chỉnh của loài thảo dược quan trọng
Bộ gen diệp lục toàn bộ của
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10