Pivka ii là gì? Các công bố khoa học về Pivka ii

PIVKA II, viết tắt của "Protein Induced by Vitamin K Absence or Antagonist-II", là một protein biểu hiện trong máu, được xem như dấu ấn sinh học quan trọng trong chẩn đoán ung thư gan, đặc biệt là ung thư tế bào gan (HCC). Nó được sản xuất khi thiếu vitamin K hoặc do tác động của các chất kháng vitamin K. PIVKA II được sử dụng để phát hiện và theo dõi hiệu quả điều trị HCC. Phương pháp đo lường chủ yếu là EIA hoặc CLEIA. Tuy nhiên, do độ nhạy và độ đặc hiệu thấp trong một số bệnh gan mạn tính, việc kết hợp với các dấu ấn sinh học khác thường được khuyến khích.

Giới thiệu về PIVKA II

PIVKA II, viết tắt của "Protein Induced by Vitamin K Absence or Antagonist-II", là một protein biểu hiện trong máu, thường được sử dụng như một dấu ấn sinh học trong chẩn đoán và theo dõi hiệu quả điều trị của ung thư gan. PIVKA II được xem như một dạng bất thường của prothrombin, được sản xuất trong điều kiện thiếu vitamin K hoặc do tác động của các chất kháng vitamin K.

Cơ chế hoạt động

PIVKA II là một dạng prothrombin không có khả năng gắn gamma-carboxyglutamate (Gla). Gla là một thành phần quan trọng cho sự hoạt động của các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K, bao gồm prothrombin. Khi vitamin K thiếu hoặc bị đối kháng, quá trình carboxyl hóa bị gián đoạn, dẫn đến sự sản xuất PIVKA II.

Ứng dụng lâm sàng

Trong thực tế, PIVKA II được sử dụng rộng rãi như một dấu ấn sinh học trong chẩn đoán ung thư gan, đặc biệt là ung thư tế bào gan (HCC). Nồng độ PIVKA II trong máu tăng cao có thể chỉ ra sự hiện diện của HCC và theo dõi hiệu quả điều trị. Ngoài ra, PIVKA II cũng có thể được sử dụng trong chẩn đoán các tình trạng liên quan đến rối loạn đông máu và các bệnh lý khác liên quan đến thiếu vitamin K.

Phương pháp đo lường

Nồng độ PIVKA II trong máu thường được định lượng thông qua các phương pháp hóa miễn dịch hoặc hóa sinh nâng cao. Các xét nghiệm này thường bao gồm EIA (enzyme immunoassay) hoặc CLEIA (chemiluminescent enzyme immunoassay), cho phép phát hiện và định lượng chính xác PIVKA II trong một mẫu máu.

Lợi ích và hạn chế

PIVKA II được coi là một công cụ hữu ích trong chẩn đoán và theo dõi HCC nhờ khả năng phát hiện sớm và theo dõi sự tiến triển của bệnh. Tuy nhiên, hạn chế của PIVKA II bao gồm độ nhạy và độ đặc hiệu thấp trong một số trường hợp, chẳng hạn như khi PIVKA II cũng tăng trong các bệnh gan mạn tính không phải HCC. Do đó, việc kết hợp PIVKA II với các dấu ấn sinh học khác và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh thường được khuyến khích để cải thiện độ chính xác.

Kết luận

PIVKA II là một dấu ấn sinh học quan trọng trong y tế, đặc biệt trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị ung thư gan. Việc hiểu rõ về đặc điểm sinh học, cơ chế hoạt động và ứng dụng lâm sàng của PIVKA II giúp các nhà lâm sàng sử dụng công cụ này một cách hiệu quả trong công tác chăm sóc bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "pivka ii":

AFP, PIVKAII, GP3, SCCA-1 and follisatin as surveillance biomarkers for hepatocellular cancer in non-alcoholic and alcoholic fatty liver disease
BMC Cancer - - 2008
Abstract Background The incidence and mortality of hepatocellular cancer (HCC) complicating alcoholic and non-alcoholic fatty liver diseases (ALD and NAFLD) is rising in western societies. Despite knowing the at risk populations for HCC development, the lack of sensitive and specific means of surveillance hampers disease detection at curable stages. The most widely used serum HCC marker is alpha-fetoprotein (AFP), while PIVKA-II, glypican-3 (GP3) and Squamous Cell Carcinoma Antigen -1 (SCCA-1) have been proposed as new biomarkers. Assessment of these HCC biomarkers has largely been performed in patients with viral hepatitis. We conducted a cross sectional study assessing the value of these serum proteins, as well a novel candidate biomarker -follistatin – in patients with HCC arising on a background of ALD or NAFLD. Methods Pre-treatment serum samples from 50 patients with HCC arising on a background of ALD (n = 31) or NAFLD (n = 19) were assessed by specific ELISA assay for PIVKAII, Glypican-3, SCCA-1 and Follistatin. Results were compared and contrasted with a control patient group with biopsy proven steatohepatitis-related cirrhosis (n = 41). The diagnostic accuracy of each of the candidate biomarkers was evaluated using receiver operating characteristic (ROC) curve analysis, reporting the area under the curve (AUC) and its 95% confidence interval (CI). Performance was compared to that of the established biomarker, AFP. Results Serum levels of all proteins were assessed by specific ELISA assays. GP3, SCCA-1 and follistatin had no HCC surveillance benefit in these patients. AFP and PIVKAII were superior to the other markers, particularly in combination. Conclusion We conclude that while novel means of surveillance are urgently required, the combination of AFP and PIVKAII for HCC is an improvement on AFP alone in ALD/NAFLD patients. Furthermore, our data in this homogenous subset of patients- particularly that confirming no role for SCCA-1 – suggests that the choice of optimal biomarkers for HCC surveillance may be determined by the aetiology of underlying chronic liver disease.
PIVKA-II serves as a potential biomarker that complements AFP for the diagnosis of hepatocellular carcinoma
BMC Cancer - Tập 21 Số 1 - 2021
Abstract Background Hepatocellular carcinoma (HCC) is one of the most common malignant tumors of the digestive system and has high morbidity and mortality rates. It is essential to search new biomarkers to improve the accuracy of early HCC diagnosis. Therefore, we evaluated the diagnostic value of prothrombin induced by vitamin K deficiency or antagonist- II (PIVKA-II) as a potential biomarker that complements α-fetoprotein (AFP) in HCC by detecting the serum PIVKA-II levels. Methods Serum PIVKA-II levels were compared in 168 HCC patients, 150 benign liver disease patients and 153 healthy controls to investigate the PIVKA-II potential to be a HCC biomarker. Receiver operating characteristic curve (ROC) analysis was used to evaluate the value of PIVKA-II in the diagnosis of HCC and its complementary role of AFP. The correlation between serum PIVKA-II levels and clinicopathological characteristics was analyzed to study the value of PIVKA-II in assessing HCC progression and prognosis. Finally, the ability of PIVKA-II in assessing the surgical treatment effects of HCC was studied by comparing the pre- and post-operative serum PIVKA-II levels in 89 HCC patients. Results Serum PIVKA-II levels in HCC patients were significantly higher than that in patients with benign liver disease and healthy controls. The PIVKA-II performance in the diagnosing HCC as an individual biomarker was remarkable. The combined detection of PIVKA-II and AFP improved the diagnostic efficiency of HCC. PIVKA-II retained significant diagnosis capabilities for AFP-negative HCC patients. Significant correlations were found between PIVKA-II expression levels and some clinicopathological characteristics, including tumor size, tumor stage, tumor metastasis, differentiation degree and complications. PIVKA-II expression obviously decreased after surgical resection. Conclusions PIVKA-II is a promising serum biomarker for the HCC diagnosis that can be used as a supplement for AFP. The combined diagnosis of the two markers greatly improved the diagnostic efficiency of HCC. The PIVKA-II levels in HCC patients were widely associated with clinicopathological characteristics representing tumor cell dissemination and/or poor prognosis. PIVKA-II can be used to evaluate the curative effects of HCC resection.
Reductions in AFP and PIVKA-II can predict the efficiency of anti-PD-1 immunotherapy in HCC patients
BMC Cancer - - 2021
Abstract Background Few biomarkers can predict the efficiency of PD-1 blockade in patients with hepatocellular carcinoma (HCC). This study aimed to investigate the prognostic role of AFP and PIVKA-II in HCC patients receiving anti-PD-1 immunotherapy. Methods A total of 235 HCC patients treated with PD-1 blockade were enrolled. Serum AFP and PIVKA-II levels were collected before and after treatments. The patients were divided into groups based on the reduction in AFP and PIVKA-II: AFP reduction ≤50% vs AFP reduction > 50% and PIVKA-II reduction ≤50% vs PIVKA-II reduction > 50%. The primary endpoints included objective response rate (ORR), progression-free survival (PFS) and overall survival (OS). Binary logistic regression analyses were used to explore the related factors of ORR. A Cox proportional hazards model was employed to identify the potential prognostic factors of PFS and OS. Results Among all the patients, 34.9% (82/235) achieved a complete or partial response. There was a positive correlation between AFP reduction > 50% or PIVKA-II reduction> 50% and the ORR of PD-1 blockade (P < 0.001 and = 0.003). PFS was significantly improved in patients with AFP reduction > 50% and PIVKA-II reduction > 50% (p < 0.001 and = 0.021). In addition, AFP reduction > 50% and PIVKA-II reduction> 50% were positively correlated with longer OS (p = 0.003 and 0.006). Conclusion Early reductions in AFP and PIVKA-II can be predictors of the efficacy of PD-1 blockade in HCC patients.
ĐẶC ĐIỂM UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN CỦA BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mở đầu: Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) đang là loại ung thư dẫn đầu cả về tỷ lệ mới mắc và tử vong tại Việt Nam hiện nay. Mục tiêu: Xác định đặc điểm bệnh lý và kết quả xét nghiệm trên bệnh nhân HCC. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang tiến cứu, ghi nhận các đặc điểm bệnh lý và xét nghiệm của 189 đến điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 1/2021 đến tháng 12/2021. Kết quả: Bệnh nhân nam chiếm đa số, tỷ lệ mắc HCC tăng theo độ tuổi với 41,5% bệnh nhân nam ở độ tuổi 60-69 và 42,5% bệnh nhân nữ ≥70 tuổi. Đa phần bệnh được phát hiện ở giai đoạn A-B, trong đó nữ có xu hướng phát hiện bệnh sớm hơn (51,1% giai đoạn A) so với nam (50,0% giai đoạn B). Các yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ cao là viêm gan (86,8%) (chủ yếu là viêm gan B chiếm 69,3%) và uống rượu (70.9%). Kích thước u hay gặp là 3-5 cm (48,2%), khối u thường xuất hiện bên gan phải (57,7%). Giá trị trung bình các xét nghiệm về tổn thương gan (GOT, GPT, GGT) và các chỉ dấu ung thư gan (AFP, % AFP-L3, PIVKA-II) đều cao hơn so với ngưỡng bình thường. Tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhất định các bệnh nhân mắc HCC nhưng chỉ dấu ung thư gan bình thường. Kết luận: Có sự phân hóa bệnh nhân HCC theo giới tính, độ tuổi và giai đoạn bệnh. Viêm gan và rượu là hai yếu tố nguy cơ chính của HCC. Các xét nghiệm phản ánh tình trạng có tổn thương gan và một số chức năng của gan bị ảnh hưởng, tuy nhiên vẫn có một số bệnh nhân HCC nhưng chỉ dấu ung thư gan bình thường.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #HCC #đặc điểm #viêm gan #AFP #PIVKA-II
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN TẠI ĐƠN VỊ UNG THƯ GAN MẬT VÀ GHÉP GAN - KHOA NGOẠI GAN MẬT TỤY BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Mở đầu: Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) đang là loại ung thư dẫn đầu cả về tỷ lệ mới mắc và tử vong tại Việt Nam hiện nay. Mục tiêu: Xác định đặc điểm bệnh lý và kết quả xét nghiệm trên bệnh nhân HCC. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang tiến cứu, ghi nhận các đặc điểm bệnh lý và xét nghiệm của 220 bệnh nhân HCC nhập viện điều trị tại Đơn vị Ung thư gan mật và ghép gan, Khoa Ngoại Gan – Mật – Tụy, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Kết quả: Bệnh nhân nam chiếm đa số, tỷ lệ mắc HCC tăng theo độ tuổi với 39,4% bệnh nhân nam ở độ tuổi 61-70 và 44,0% bệnh nhân nữ trên 70 tuổi. Đa phần bệnh được phát hiện ở giai đoạn A-B, trong đó nữ có xu hướng phát hiện bệnh sớm hơn (56,0% giai đoạn A) so với nam (51,2% giai đoạn B). Các yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ cao là viêm gan (87,7%) (chủ yếu là viêm gan B chiếm 65,5%) và uống rượu (69,5%). Kích thước u hay gặp là 3-5 cm (46,4%), khối u thường xuất hiện bên gan phải (55,5%). Giá trị trung bình các xét nghiệm về tổn thương gan (GOT, GPT, GGT) và các chỉ dấu ung thư gan (AFP, % AFP-L3, PIVKA-II) đều cao hơn so với ngưỡng bình thường. Tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhất định các bệnh nhân mắc HCC nhưng chỉ dấu ung thư gan bình thường. Kết luận: Có sự phân hóa bệnh nhân HCC theo giới tính, độ tuổi và giai đoạn bệnh. Viêm gan và rượu là hai yếu tố nguy cơ chính của HCC. Các xét nghiệm phản ánh tình trạng có tổn thương gan và một số chức năng của gan bị ảnh hưởng, tuy nhiên vẫn có một số bệnh nhân HCC nhưng chỉ dấu ung thư gan bình thường.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #HCC #đặc điểm #viêm gan #AFP #PIVKA-II
ĐÁNH GIÁ MỐI TƯƠNG QUAN BỘ BA AFP, AFP-L3%, PIVKA-II VỚI CÁC YẾU TỐ LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN C
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của nhóm bệnh nhân viêm gan C; đánh giá mối tương quan của bộ ba AFP, AFP – L3 với PIVKA-II với các đặc điểm bệnh nhân viêm gan C. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 33 đối tượng viêm gan C. Kết quả: Bệnh nhân nam giới chiếm đa số, tỷ lệ nam/nữ là 2/1, tuổi trung bình cả nam và nữ là 53,7 tuổi. Trong số các bệnh nhân viêm gan C, nghiện rượu là đặc điểm có tỷ lệ cao nhất 39,4%. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp là chán ăn, mệt mỏi, chướng bụng. Các chỉ số cao hơn giá trị người bình thường là AST 173,5 ± 449 U/L, ALT  121,8 ± 258,4 U/L. Nhóm bệnh nhân có u, một trong ba chỉ số AFFP, AFP-L3, PIVKA-II vượt ngưỡng có tỷ lệ là 87,5%, trong nhóm bệnh nhân không có u, cả ba chỉ số dưới ngưỡng là 22,2%. Kết luận: Giá trị AFP, AFP-L3% và PIVKA-II tăng cao trong đa số bệnh nhân viêm gan C có xuất hiện khối u.
PIVKA-II combined with alpha-fetoprotein for the diagnostic value of hepatic tumors in children: a multicenter, prospective observational study
Hepatology International -
Abstract Background To investigate whether protein induced by vitamin K antagonist-II (PIVKA-II) combined with alpha-fetoprotein (AFP) can improve the diagnostic and differential diagnostic accuracy of childhood hepatic tumors. Methods A multi-center prospective observational study was performed at nine regional institutions around China. Children with hepatic mass (Group T) were divided into hepatoblastoma group (Group THB) and hemangioendothelioma group (Group THE), children with extrahepatic abdominal mass (Group C). Peripheral blood was collected from each patient prior to surgery or chemotherapy. The area under the curve (AUROC) was used to evaluate the diagnostic efficiency of PIVKA-II and the combined tumor markers with AFP. Results The mean levels of PIVKA-II and AFP were both significantly higher in Group T than Group C (p = 0.001, p < 0.001), in Group THB than Group THE (p = 0.018, p = 0.013) and in advanced HB than non-advanced HB (p = 0.001, p = 0.021). For the diagnosis of childhood hepatic tumors, AUROC of PIVKA-II (cut-off value 32.6 mAU/mL) and AFP (cut-off value 120 ng/mL) was 0.867 and 0.857. The differential diagnostic value of PIVKA-II and AFP in hepatoblastoma from hemangioendothelioma was further assessed, AUROC of PIVKA-II (cut-off value 47.1mAU/mL) and AFP (cut-off value 560 ng/mL) was 0.876 and 0.743. The combined markers showed higher AUROC (0.891, 0.895 respectively) than PIVKA-II or AFP alone. Conclusions The serum level of PIVKA-II was significantly higher in children with hepatic tumors, especially those with malignant tumors. The combination of PIVKA-II with AFP further increased the diagnostic performance. Trial registration Clinical Trials, NCT03645655. Registered 20 August 2018, https://www.clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT03645655.
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI VÀ TƯƠNG QUAN NỒNG ĐỘ CÁC DẤU ẤN PIVKA II, AFP-L3 VÀ AFP TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ GAN CÓ HBsAg(+)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu sự thay đổi và tương quan nồng độ các dấu ấn PIVKA-II, AFP-L3 và AFP trên bệnh nhân ung thư gan có HBsAg(+). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 86 bệnh nhân ung thư gan, có HbsAg (+) và được điều trị tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương trong thời gian từ 1/2018 đến tháng 7/2020. Kết quả: - Trong số 86 bệnh nhân HCC có HBsAg(+) chỉ có 50% bệnh nhân có AFP >200 ng/ml. Tỷ lệ bệnh nhân có giá trị AFP-L3 và PIVKA-II tăng cao trên giới hạn bình thường chiếm chủ yếu (60,7% và 87,8%). Số bệnh nhân có nồng độ PIVKA-II trong khoảng 40-10000 mAU/ml chiếm tỷ lệ cao nhất 59,3%. Trường hợp nồng độ PIVKA-II > 100000 mAU/ml chiếm 3,5%. - Giá trị AFP-L3 và PIVKA-II tăng cao trên giới hạn bình thường trong nhóm bệnh nhân ung thư có khối u < 2cm chiếm tỷ lệ lần lượt là 78,9% 63,2%; trong nhóm có kích thước u từ 2 đến 5 cm là 66,7% và 93,8% và trong nhóm có kích thước u > 5cm là 84,2% và 94,7%. Trong nhóm bệnh nhân HCC có huyết khối, AFP-L3 và PIVKA-II chủ yếu ở trên ngưỡng bình thường lần lượt là 81,1% và 97%. - Trong nhóm bệnh nhân HCC tỷ lệ AFP-L3 và nồng độ AFP có mối tương quan mức độ trung bình với r=0,38, p<0,05, tương quan Spearman. Không có sự tương quan giữa nồng độ PIVKA-II với tỷ lệ AFP-L3 và với nồng độ AFP ở bệnh nhân ung thư gan, tương quan Spearman. Kết luận: Việc kết hợp xét nghiệm cả 3 dấu ấn AFP-L3, PIVKA-II và AFP giúp chẩn đoán và theo dõi tiến triển khối u trên bệnh nhân ung thư tế bào gan có HBsAg(+).
#AFP-L3 #PIVKA-II #AFP #HCC #ung thư gan #HBV #HbsAg
NHẬN XÉT NỒNG ĐỘ AFP, AFP-L3, PIVKA II VÀ ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM Ổ BỤNG Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nhận xét nồng độ AFP, AFP-L3, PIVKA II và đặc điểm siêu âm ổ bụng ở bệnh nhân viêm gan B tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu 311 bệnh nhân viêm gan B được làm xét nghiệm AFP, AFP-L3, PIVKA II và siêu âm ổ bụng từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 3 năm 2021. Kết quả nghiên cứu: Nhóm tuổi thường gặp nhất từ 41-70 tuổi (68,5%). Tuổi trung bình 48,7±12,3 tuổi, bệnh gặp nhiều ở nam hơn nữ (gấp 2,5 lần). Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất gồm: chán ăn (25,7%), mệt mỏi (32,5%), đau bụng hạ sườn phải (16,7%), chướng bụng (16,7%), vàng da (17,4%). 77,5% bệnh nhân không có xơ gan, và 22,5% bệnh nhân có xơ gan. 2,3% bệnh nhân mắc cả viêm gan B và viêm gan C. Giá trị trung vị của AFP, AFP-L3, PIVKA ở nhóm tăng các chỉ số này lần lượt là 17,2 ng/mL; 9,4% và 24,0 mAU/mL tương ứng. Có  7,4% bệnh nhân có khối u gan trên siêu âm trong đó 78,3% u gan có kích thước dưới 3 cm. Các tổn thương u gan đều là tổn thương lành tính. Kết luận: Nồng độ AFP, AFP-L3, PIVKA ở bệnh nhân viêm gan B có kèm theo xơ gan hoặc không và ngưỡng tăng không cao. Với nhóm bệnh nhân này cần lưu ý để theo dõi định kỳ nhằm phát hiện sớm ung thư gan.
#Viêm gan B #siêu âm ổ bụng #AFP #AFP-L3 #PIVKA
Tổng số: 40   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4