Pfizer là gì? Các công bố khoa học về Pfizer
Pfizer là một công ty dược phẩm đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ. Họ chuyên sản xuất và kinh doanh các loại thuốc, vacxin, và các sản phẩm liên quan đến sức khỏe và...
Pfizer là một công ty dược phẩm đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ. Họ chuyên sản xuất và kinh doanh các loại thuốc, vacxin, và các sản phẩm liên quan đến sức khỏe và chăm sóc sức khỏe. Pfizer được thành lập vào năm 1849 và hiện đang là một trong những công ty dược phẩm lớn nhất và có uy tín nhất trên thế giới.
Pfizer được thành lập bởi Charles Pfizer và Charles Erhart vào năm 1849 tại New York, Mỹ. Ban đầu, công ty chỉ sản xuất chất hóa học và tẩy rửa, nhưng sau đó đã mở rộng hoạt động vào lĩnh vực dược phẩm.
Pfizer là một trong những công ty dược phẩm hàng đầu thế giới và từng có nhiều đóng góp quan trọng cho ngành công nghiệp dược phẩm. Họ đã phát triển ra nhiều loại thuốc kháng sinh quan trọng, bao gồm penicillin và ampicillin, ông lớn thế giới trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Pfizer hoạt động theo nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm dược phẩm, chăm sóc sức khỏe người tiêu dùng, dược phẩm chuyên ngành, và chăm sóc đặc biệt. Các sản phẩm của Pfizer được sử dụng trên toàn cầu và được phân phối thông qua các kênh bán hàng như hệ thống nhà thuốc và các nhà bán lẻ dược phẩm.
Ngoài ra, Pfizer cũng nổi tiếng với việc nghiên cứu và phát triển các loại vacxin. Họ đã đóng góp quan trọng cho việc phát triển loại vacxin phòng chống COVID-19 trong cuộc khủng hoảng đại dịch hiện nay.
Pfizer đã mở rộng hoạt động và có mặt trên nhiều thị trường quốc tế. Họ duy trì quan hệ đối tác với nhiều tổ chức y tế và viện nghiên cứu trên toàn cầu để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm phục vụ cho sức khỏe con người.
Tổng quan về Pfizer:
- Thành lập: 1849
- Trụ sở chính: New York, Mỹ
- Lĩnh vực hoạt động: Dược phẩm, chăm sóc sức khỏe người tiêu dùng, dược phẩm chuyên ngành, chăm sóc đặc biệt
- Sản phẩm chính: Thuốc, vacxin và các sản phẩm liên quan đến sức khỏe
- Quy mô: Là một trong những công ty dược phẩm lớn nhất và có uy tín nhất trên thế giới.
Pfizer đã trở thành một trong những công ty dược phẩm lớn nhất thế giới, với quy mô toàn cầu và sự hiện diện ở hơn 150 quốc gia. Họ có một danh mục sản phẩm rộng, bao gồm các loại thuốc chữa bệnh khác nhau, từ các loại thuốc trị ung thư, bệnh tim mạch, tiểu đường cho đến các loại thuốc kháng vi khuẩn và chống viêm.
Pfizer cũng là một trong số ít các công ty dược phẩm có năng lực nghiên cứu và phát triển mạnh mẽ. Họ dành hàng tỷ đô la mỗi năm cho nghiên cứu và phát triển các loại thuốc mới, công nghệ mới và phương pháp điều trị mới. Pfizer đã có nhiều thành công lớn trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, đóng góp đáng kể cho việc điều trị và phòng ngừa các bệnh tật.
Ngoài ra, Pfizer cũng tham gia vào các hoạt động xã hội và chú trọng đến việc cải thiện sức khỏe cộng đồng. Họ tiến hành các chương trình giáo dục về sức khỏe, hỗ trợ các tổ chức từ thiện và tham gia vào các dự án y tế toàn cầu.
Công ty cũng nổi tiếng với việc sáng tạo và phát triển các loại vacxin. Pfizer hợp tác với các tổ chức y tế, viện nghiên cứu và cơ quan quốc tế để nghiên cứu và phát triển các loại vacxin phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm. Một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của Pfizer là cùng với BioNTech, họ phát triển thành công và cho ra mắt một trong những loại vacxin phòng COVID-19 đầu tiên trên thế giới.
Pfizer cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mua lại và sáp nhập với các công ty dược phẩm và y tế khác để mở rộng quy mô và khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường toàn cầu.
Trụ sở chính của Pfizer tại New York, Mỹ và công ty có hơn 90.000 nhân viên trên toàn cầu, làm việc trong các lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị và phân phối.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "pfizer":
Trials of coronavirus disease 2019 (COVID-19) vaccination included limited numbers of children, so they may not have detected rare but important adverse events in this population. We report 7 cases of acute myocarditis or myopericarditis in healthy male adolescents who presented with chest pain all within 4 days after the second dose of Pfizer-BioNTech COVID-19 vaccination. Five patients had fever around the time of presentation. Acute COVID-19 was ruled out in all 7 cases on the basis of negative severe acute respiratory syndrome coronavirus 2 real-time reverse transcription polymerase chain reaction test results of specimens obtained by using nasopharyngeal swabs. None of the patients met criteria for multisystem inflammatory syndrome in children. Six of the 7 patients had negative severe acute respiratory syndrome coronavirus 2 nucleocapsid antibody assay results, suggesting no previous infection. All patients had an elevated troponin. Cardiac MRI revealed late gadolinium enhancement characteristic of myocarditis. All 7 patients resolved their symptoms rapidly. Three patients were treated with nonsteroidal antiinflammatory drugs only, and 4 received intravenous immunoglobulin and corticosteroids. In this report, we provide a summary of each adolescent’s clinical course and evaluation. No causal relationship between vaccine administration and myocarditis has been established. Continued monitoring and reporting to the US Food and Drug Administration Vaccine Adverse Event Reporting System is strongly recommended.
We have previously described how a series of trials sponsored by Pfizer of its antifungal drug, fluconazole, in cancer patients with neutropenia handicapped the control drug, amphotericin B, by flaws in design and analysis. We describe similar problems in two pivotal trials of Pfizer's new antifungal agent, voriconazole, published in a prestigious journal. In a non-inferiority trial, voriconazole was significantly inferior to liposomal amphothericin B, but the authors concluded that voriconazole was a suitable alternative. The second trial used amphothericin B deoxycholate as comparator, but handicapped the drug by not requiring pre-medication to reduce infusion-related toxicity or substitution with electrolytes and fluid to reduce nephrotoxicity, although the planned duration of treatment was 84 days. Voriconazole was given for 77 days on average, but the comparator for only 10 days, which precludes a meaningful comparison.
In a random sample of 50 references to these trials, we found that the unwarranted conclusions were mostly uncritically propagated. It was particularly surprising that relevant criticism raised by the FDA related to the first trial was only quoted once, and that none of the articles noted the obvious flaws in the design of the second trial.
We suggest that editors ensure that the abstract reflects fairly on the remainder of the paper, and that journals do not impose any time limit for accepting letters that point out serious weaknesses in a study that have not been noted before.
Limited data is available on the effect of COVID-19 vaccination in immunocompromised individuals. Here, we provide the results from vaccinating a single-center cohort of patients with common variable immunodeficiency (CVID).
In a prospective, open-label clinical trial, 50 patients with CVID and 90 age-matched healthy controls (HC) were analyzed for SARS-CoV-2 spike antibody (Ab) production after one or two doses of the Pfizer-BioNTech BNT162b2 mRNA vaccine. Additionally, in selected patients, SARS-CoV-2 spike-specific T-cells were assessed.
A potent vaccine-induced anti-spike–specific IgG Ab response was observed in all the HC. In contrast, only 68.3% of the CVID patients seroconverted, with median titers of specific Ab being 83-fold lower than in HC. In fact, only 4/46 patients (8.6%) of patients who were seronegative at baseline reached the threshold for an optimal response (250 U/mL). Using the EUROclass definition, patients with either a reduced proportion, but not absolute counts, of switched memory B-cells or having an increased frequency of CD21low B-cells generally generated poor vaccine responses. Overall, CVID-patients had reduced spike-specific IFN-γ positive CD4+ T cell responses 2 weeks after the second dose, compared to HC. The total CD4 and CD4 central memory cell counts correlated with humoral immunity to the vaccine.
CVID patients with low frequency of switched memory B-cells or an increased frequency of CD21low B-cells according to the EUROclass definition demonstrated poor responses to Pfizer-BioNTech BNT162b2 mRNA vaccination. Cellular immune responses were significantly affected, affirming that the defect in CVID is not limited to humoral immunity.
mRNA vaccines including Pfizer BioNTech and Moderna have categorically been considered safe when it comes to preventing COVID-19. However, there is still a small associated risk of thromboembolic phenomenon including venous sinus thrombosis with it and our case report highlights one.
We describe a patient who developed severe progressive headache, tinnitus and visual disturbance symptoms post-Pfizer-SARS-CoV-2 vaccination. His medical history included essential tremors, hypertension, type 2 diabetes mellitus, chronic kidney disease stage 3, anxiety, depression and long-term catheterisation. Systemic examination revealed hypotonia, generalised reduced power and central diplopia along with peripheral visual field defect in the left eye. He was extensively investigated, the COVID-19 PCR test was negative and all routine blood tests were in the normal range except a marginally raised D-dimer of 779 ng/mL. CT head was unremarkable. He was also tested for myasthenia gravis; however, acetylcholine receptors antibodies were negative and nerve conduction studies were normal. Subsequent MRI of the brain with venography confirmed venous sinus thrombosis. A 24-hour Holter monitoring test did not reveal any cardiac rate or rhythm abnormality. He was treated with apixaban as per a neurologist’s advice. His clinical condition started to improve and was later discharged from the hospital with an outpatient neurologist clinic follow-up.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10