Osimertinib là gì? Các công bố khoa học về Osimertinib
Osimertinib, hay Tagrisso, là thuốc điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) phát triển bởi AstraZeneca. Thuộc nhóm ức chế tyrosine kinase thế hệ ba, osimertinib nhắm vào đột biến EGFR, bao gồm cả T790M. Được chỉ định cho bệnh nhân NSCLC có đột biến EGFR đã xác định, thuốc này có thể gây tác dụng phụ như tiêu chảy, phát ban và các vấn đề nghiêm trọng về phổi và tim. Phê duyệt nhanh từ FDA năm 2015, osimertinib đã được công nhận là một bước tiến quan trọng trong điều trị NSCLC toàn cầu.
Tổng quan về Osimertinib
Osimertinib, còn có tên thương mại là Tagrisso, là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Được phát triển bởi AstraZeneca, osimertinib thuộc nhóm thuốc ức chế tyrosine kinase thế hệ thứ ba, hoạt động bằng cách ngăn chặn hoạt động của các protein liên quan đến sự phát triển và lan rộng của tế bào ung thư. Thuốc này đặc biệt nhắm đến đột biến EGFR (Epidermal Growth Factor Receptor), bao gồm đột biến T790M nổi tiếng.
Dược lý học của Osimertinib
Osimertinib hoạt động bằng cách ức chế tyrosine kinase của EGFR, một protein nằm trên bề mặt của các tế bào và đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sự tăng trưởng và phân chia tế bào. Đột biến EGFR thường thấy ở bệnh nhân NSCLC, làm tăng hoạt tính của protein này và thúc đẩy sự phát triển của khối u. Osimertinib được thiết kế để nhắm vào các tế bào ung thư có đột biến này và cản trở tín hiệu tế bào, dẫn đến ức chế sự phát triển của khối u.
Chỉ định sử dụng
Osimertinib được chỉ định sử dụng cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ với đột biến EGFR đã được xác định thông qua xét nghiệm di truyền. Thuốc được phê duyệt như là một giải pháp điều trị đầu tay, cũng như để sử dụng cho bệnh nhân có đột biến T790M, một nguyên nhân phổ biến khiến ung thư đề kháng với các thuốc điều trị EGFR trước đó như erlotinib, gefitinib và afatinib.
Tác dụng phụ
Giống như nhiều loại thuốc điều trị ung thư khác, osimertinib cũng có thể gây ra một số tác dụng phụ. Những tác dụng phụ thường gặp bao gồm tiêu chảy, phát ban, khô da và đau móng tay. Ngoài ra, thuốc cũng có thể gây ra các vấn đề về phổi và tim hiếm gặp nhưng có mức độ nghiêm trọng cao, như bệnh viêm phổi kẽ và kéo dài khoảng QT trên điện tâm đồ.
Quá trình phát triển và phê duyệt
Osimertinib ban đầu được phê duyệt bởi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) vào tháng 11 năm 2015 trong chương trình phê duyệt nhanh dành cho thuốc điều trị các bệnh ung thư có nhu cầu chưa được đáp ứng đầy đủ. Từ đó đến nay, nó đã được cấp phép sử dụng tại nhiều quốc gia khác và được coi là một tiến bộ quan trọng trong việc điều trị NSCLC mang đột biến EGFR.
Kết luận
Osimertinib là một tiến bộ quan trọng trong việc điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ, đặc biệt đối với bệnh nhân có đột biến EGFR. Với khả năng nhắm trúng các đột biến gây đề kháng với nhiều phương pháp điều trị trước đây, osimertinib mang lại hy vọng mới cho bệnh nhân và là minh chứng cho việc phát triển các liệu pháp điều trị đích trong y học hiện đại.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "osimertinib":
Các chất ức chế kinase giành riêng cho thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) thế hệ thứ ba đã cho thấy hoạt tính mạnh mẽ chống lại sự kháng ức chế kinase do EGFR T790M gây ra. Chúng tôi nghiên cứu liệu rằng phân tích gen không xâm lấn từ DNA huyết tương không tế bào (cfDNA) có phải là một dấu ấn sinh học hữu ích để dự đoán kết quả từ chất ức chế EGFR-TKI thế hệ thứ ba, osimertinib, hay không.
Mẫu huyết tương được thu thập từ tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đầu tiên về osimertinib trên người. Những bệnh nhân được bao gồm có kháng ức chế kinase-tyrosine của EGFR và chứng cứ về đột biến nhạy cảm thông thường của EGFR. Phân tích gen từ DNA huyết tương không tế bào được thực hiện bằng BEAMing. Độ chính xác của phân tích gen huyết tương được đánh giá bằng cách sử dụng kết quả phân tích gen từ mẫu mô của phòng thí nghiệm trung tâm làm tham khảo. Tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) và thời gian sống không tiến triển bệnh (PFS) được phân tích trên tất cả bệnh nhân dương tính hoặc âm tính với T790M.
Độ nhạy của phân tích gen huyết tương để phát hiện T790M là 70%. Trong số 58 bệnh nhân có khối u âm tính với T790M, T790M được phát hiện trong huyết tương của 18 bệnh nhân (31%). ORR và PFS trung bình tương tự ở bệnh nhân với kết quả dương tính T790M từ huyết tương (ORR, 63%; PFS, 9.7 tháng) hoặc kết quả dương tính T790M từ khối u (ORR, 62%; PFS, 9.7 tháng). Mặc dù bệnh nhân với kết quả âm tính T790M từ huyết tương có kết quả tổng thể khả quan (ORR, 46%; trung bình PFS, 8.2 tháng), phân tích gen từ mô phân biệt một nhóm bệnh nhân dương tính với T790M có kết quả tốt hơn (ORR, 69%; PFS, 16.5 tháng) cũng như một nhóm bệnh nhân âm tính với T790M có kết quả kém (ORR, 25%; PFS, 2.8 tháng).
Trong phân tích hồi cứu này, bệnh nhân có kết quả dương tính với T790M từ huyết tương có kết quả với osimertinib tương đương với bệnh nhân có kết quả dương tính thông qua xét nghiệm mô. Nghiên cứu này cho thấy rằng, sau khi có sẵn các xét nghiệm T790M trong huyết tương đã được chuẩn hóa, một số bệnh nhân có thể tránh được sinh thiết khối u để phân tích gen T790M. Do có 30% tỷ lệ âm tính giả của phân tích gen huyết tương, những bệnh nhân có kết quả âm tính với T790M từ huyết tương vẫn cần sinh thiết khối u để xác định sự hiện diện hay vắng mặt của T790M.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10