Geoffrey R. Oxnard1, Kenneth S. Thress1, Ryan S. Alden1, Rachael Lawrance1, Cloud P. Paweletz1, Mireille Cantarini1, James Chih‐Hsin Yang1, J. Carl Barrett1, Pasi A. Jänne1
1Geoffrey R. Oxnard, Ryan S. Alden, Cloud P. Paweletz, and Pasi A. Jänne, Dana-Farber Cancer Institute, Boston; Kenneth S. Thress and J. Carl Barrett, AstraZeneca, Waltham, MA; Rachael Lawrance and Mireille Cantarini, AstraZeneca, Macclesfield, United Kingdom; and James Chih-Hsin Yang, National Taiwan University and National Taiwan University Hospital, Taipei, Taiwan.
Tóm tắt
Mục đích Các chất ức chế kinase giành riêng cho thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) thế hệ thứ ba đã cho thấy hoạt tính mạnh mẽ chống lại sự kháng ức chế kinase do EGFR T790M gây ra. Chúng tôi nghiên cứu liệu rằng phân tích gen không xâm lấn từ DNA huyết tương không tế bào (cfDNA) có phải là một dấu ấn sinh học hữu ích để dự đoán kết quả từ chất ức chế EGFR-TKI thế hệ thứ ba, osimertinib, hay không. Phương pháp Mẫu huyết tương được thu thập từ tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đầu tiên về osimertinib trên người. Những bệnh nhân được bao gồm có kháng ức chế kinase-tyrosine của EGFR và chứng cứ về đột biến nhạy cảm thông thường của EGFR. Phân tích gen từ DNA huyết tương không tế bào được thực hiện bằng BEAMing. Độ chính xác của phân tích gen huyết tương được đánh giá bằng cách sử dụng kết quả phân tích gen từ mẫu mô của phòng thí nghiệm trung tâm làm tham khảo. Tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) và thời gian sống không tiến triển bệnh (PFS) được phân tích trên tất cả bệnh nhân dương tính hoặc âm tính với T790M. Kết quả Độ nhạy của phân tích gen huyết tương để phát hiện T790M là 70%. Trong số 58 bệnh nhân có khối u âm tính với T790M, T790M được phát hiện trong huyết tương của 18 bệnh nhân (31%). ORR và PFS trung bình tương tự ở bệnh nhân với kết quả dương tính T790M từ huyết tương (ORR, 63%; PFS, 9.7 tháng) hoặc kết quả dương tính T790M từ khối u (ORR, 62%; PFS, 9.7 tháng). Mặc dù bệnh nhân với kết quả âm tính T790M từ huyết tương có kết quả tổng thể khả quan (ORR, 46%; trung bình PFS, 8.2 tháng), phân tích gen từ mô phân biệt một nhóm bệnh nhân dương tính với T790M có kết quả tốt hơn (ORR, 69%; PFS, 16.5 tháng) cũng như một nhóm bệnh nhân âm tính với T790M có kết quả kém (ORR, 25%; PFS, 2.8 tháng). Kết luận Trong phân tích hồi cứu này, bệnh nhân có kết quả dương tính với T790M từ huyết tương có kết quả với osimertinib tương đương với bệnh nhân có kết quả dương tính thông qua xét nghiệm mô. Nghiên cứu này cho thấy rằng, sau khi có sẵn các xét nghiệm T790M trong huyết tương đã được chuẩn hóa, một số bệnh nhân có thể tránh được sinh thiết khối u để phân tích gen T790M. Do có 30% tỷ lệ âm tính giả của phân tích gen huyết tương, những bệnh nhân có kết quả âm tính với T790M từ huyết tương vẫn cần sinh thiết khối u để xác định sự hiện diện hay vắng mặt của T790M.