Docetaxel là gì? Các công bố khoa học về Docetaxel
Docetaxel là một loại thuốc chứa thành phần hoạt chất docetaxel, thuộc nhóm thuốc chống ung thư gọi là tác nhân chống tuần hoàn (microtubulin inhibitor). Doceta...
Docetaxel là một loại thuốc chứa thành phần hoạt chất docetaxel, thuộc nhóm thuốc chống ung thư gọi là tác nhân chống tuần hoàn (microtubulin inhibitor). Docetaxel được sử dụng để điều trị một số loại ung thư như ung thư vú, ung thư phổi, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư cổ tử cung. Thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phát triển và phân chia của tế bào ung thư, từ đó làm chết các tế bào ung thư. Docetaxel thường được sử dụng trong các liệu pháp hóa trị hỗn hợp để điều trị ung thư giai đoạn cao và di căn.
Docetaxel là một dẫn xuất tổng hợp từ cây thường xuân (Taxus baccata). Thuốc này thuộc nhóm tác nhân chống tuần hoàn, là một chất ức chế microtubulin. Microtubulin là thành phần quan trọng trong sự phân chia tế bào và hình thành mạng đường ống tổ chức, cần thiết cho quá trình tạo thành và duy trì kết cấu của tế bào. Docetaxel hoạt động bằng cách gắn kết vào microtubulin và ức chế sự tái tạo microtubulin, gây ra sự phá hủy của chúng. Điều này dẫn đến sự chậm lại và ngừng hoàn toàn quá trình phân chia tế bào ung thư.
Docetaxel được sử dụng trong điều trị một số loại ung thư, bao gồm ung thư vú, ung thư phổi không tế bào nhỏ, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư cổ tử cung và một số loại ung thư khác. Nó thường được sử dụng trong quá trình hóa trị hỗn hợp, tức là được kết hợp với các loại kháng sinh tác động đến DNA hoặc các tác nhân khác để đạt hiệu quả tối đa trong việc tiêu diệt tế bào ung thư.
Docetaxel thường được tiêm vào tĩnh mạch và thường được thực hiện trong các phiên điều trị kéo dài từ 1 đến 3 giờ. Liều lượng và lịch trình điều trị sẽ được xác định dựa trên loại và giai đoạn của ung thư, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và các yếu tố khác.
Tuy docetaxel có thể mang lại lợi ích cho nhiều bệnh nhân ung thư, tuy nhiên, nó cũng có thể gây ra một số tác dụng phụ như mệt mỏi, mất năng lượng, suy nhược, mất nồng độ, buồn nôn, nôn mửa, mất cân bằng điện giải, tóc rụng và thay đổi trên da và móng tay. Các tác dụng phụ này thường là tạm thời và có thể bị giảm hoặc điều trị thông qua các biện pháp hỗ trợ từ bác sĩ.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "docetaxel":
So sánh hiệu quả và độ độc của pemetrexed so với docetaxel trong điều trị bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn tiến xa sau khi đã được điều trị bằng hóa chất.
Các bệnh nhân đủ điều kiện có trạng thái hiệu suất 0 đến 2, đã được điều trị trước đó với một chế độ hóa trị liệu cho NSCLC tiến xa, và có chức năng cơ quan đủ điều kiện. Bệnh nhân nhận pemetrexed 500 mg/m2 tiêm tĩnh mạch (IV) vào ngày 1 cùng với vitamin B12, axit folic, và dexamethasone hoặc docetaxel 75 mg/m2 IV vào ngày 1 cùng với dexamethasone mỗi 21 ngày. Điểm cuối chính là thời gian sống toàn bộ.
571 bệnh nhân được phân định ngẫu nhiên. Tỷ lệ đáp ứng tổng thể là 9.1% và 8.8% (phân tích phương sai P = .105) cho pemetrexed và docetaxel, tương ứng. Thời gian không tiến triển bệnh trung bình là 2.9 tháng cho mỗi nhóm, và thời gian sống trung bình là 8.3 so với 7.9 tháng (P = không đáng kể) cho pemetrexed và docetaxel, tương ứng. Tỷ lệ sống sót 1 năm cho mỗi nhóm là 29.7%. Bệnh nhân nhận docetaxel có khả năng cao hơn bị giảm bạch cầu độ 3 hoặc 4 (40.2% so với 5.3%; P < .001), giảm bạch cầu có sốt (12.7% so với 1.9%; P < .001), giảm bạch cầu có nhiễm trùng (3.3% so với 0.0%; P = .004), nhập viện vì sốt neutropenic (13.4% so với 1.5%; P < .001), nhập viện do các biến cố bất lợi liên quan đến thuốc khác (10.5% so với 6.4%; P = .092), sử dụng chất tăng sinh tế bào bạch cầu hạt (19.2% so với 2.6%, P < .001) và rụng tóc mọi cấp độ (37.7% so với 6.4%; P < .001) so với bệnh nhân nhận pemetrexed.
Điều trị với pemetrexed đem lại kết quả hiệu lực tương đương lâm sàng, nhưng với ít tác dụng phụ hơn đáng kể so với docetaxel trong điều trị bậc hai cho bệnh nhân mắc NSCLC tiến xa và nên được xem là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho NSCLC bậc hai khi có sẵn.
Nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm này so sánh trastuzumab kết hợp với docetaxel với đơn trị liệu docetaxel trong điều trị đầu tiên cho bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì người loại 2 (HER2) dương tính.
Các bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên để nhận 6 chu kỳ docetaxel 100 mg/m^2 mỗi 3 tuần, có hoặc không có trastuzumab liều 4 mg/kg theo sau là 2 mg/kg hàng tuần cho đến khi bệnh tiến triển.
Tổng cộng 186 bệnh nhân đã nhận ít nhất một liều của thuốc thử nghiệm. Trastuzumab cùng với docetaxel vượt trội đáng kể so với docetaxel đơn trị liệu về tỷ lệ đáp ứng tổng thể (61% so với 34%; P = 0.0002), sống sót tổng thể (trung vị, 31.2 tháng so với 22.7 tháng; P = 0.0325), thời gian tiến triển bệnh (trung vị, 11.7 tháng so với 6.1 tháng; P = 0.0001), thời gian thất bại điều trị (trung vị, 9.8 tháng so với 5.3 tháng; P = 0.0001), và thời gian đáp ứng (trung vị, 11.7 tháng so với 5.7 tháng; P = 0.009). Không có sự khác biệt nhiều về số lượng và mức độ nghiêm trọng của các tác dụng phụ giữa hai nhóm. Giảm bạch cầu trung tính độ 3 đến 4 phổ biến hơn ở nhóm kết hợp (32%) so với nhóm chỉ dùng docetaxel (22%), và tỷ lệ nhiễm trung tính có sốt hơi cao hơn trong nhóm kết hợp (23% so với 17%). Một bệnh nhân trong nhóm kết hợp đã gặp phải suy tim có triệu chứng (1%). Một bệnh nhân khác gặp suy tim có triệu chứng 5 tháng sau khi ngừng trastuzumab do tiến triển bệnh, trong khi đang điều trị bằng anthracycline thử nghiệm trong 4 tháng.
Trastuzumab kết hợp với docetaxel vượt trội hơn so với đơn trị liệu docetaxel trong điều trị đầu tiên ở bệnh nhân ung thư vú di căn thụ thể HER2 dương tính về tỷ lệ sống sót tổng thể, tỷ lệ đáp ứng, thời gian đáp ứng, thời gian tiến triển bệnh và thời gian thất bại điều trị, mà không tăng thêm độc tính đáng kể.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10