Chất keo tụ là gì? Các công bố khoa học về Chất keo tụ

Chất keo tụ là hóa chất được dùng trong xử lý nước nhằm kết tụ các hạt nhỏ trong dung dịch thành hạt lớn hơn để dễ loại bỏ. Cơ chế hoạt động dựa trên trung hòa điện tích của các hạt nhờ ion dương. Có nhiều loại chất keo tụ như nhôm sunfat, PAC và sắt (III) chloride, với ứng dụng trong xử lý nước uống, nước thải và công nghiệp giấy. Dù mang lại hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí, chất keo tụ vẫn có hạn chế về lượng bùn thải và yêu cầu quản lý chặt chẽ để tránh tác động môi trường.

Chất keo tụ là gì?

Chất keo tụ là một nhóm các hóa chất được sử dụng phổ biến trong ngành công nghiệp xử lý nước và nước thải với mục đích kết tụ các hạt nhỏ không kết tủa trong chất lỏng thành các hạt lớn hơn, từ đó dễ dàng loại bỏ ra khỏi dung dịch. Chất keo tụ thường được sử dụng cùng với chất tạo bông để cải thiện hiệu quả xử lý.

Cơ chế hoạt động của chất keo tụ

Cơ chế hoạt động của chất keo tụ dựa trên quá trình trung hòa các hạt mang điện tích. Các hạt nhỏ trong nước thường mang điện tích âm, khiến chúng đẩy nhau và phân tán rời rạc trong dung dịch. Khi chất keo tụ được thêm vào, chúng mang các ion dương, trung hòa điện tích âm của các hạt nhỏ, khiến các hạt này kết dính lại với nhau, tạo thành các bông cặn lớn hơn có thể dễ dàng lắng xuống hoặc được loại khỏi dung dịch qua lọc.

Các loại chất keo tụ phổ biến

Có nhiều loại chất keo tụ được sử dụng tùy thuộc vào ứng dụng cụ thể, bao gồm:

  • Nhôm sunfat (Al2(SO4)3): Được gọi tắt là phèn nhôm, là một trong những chất keo tụ thông dụng nhất trong xử lý nước.
  • Polyaluminium chloride (PAC): Là chất keo tụ hiện đại hơn phèn nhôm, hiệu quả hơn ở dải pH rộng hơn và tạo ra ít bùn hơn.
  • Sắt (III) chloride (FeCl3): Sử dụng phổ biến trong xử lý nước thải công nghiệp nhờ khả năng loại bỏ phosphate và kim loại nặng.
  • Kali alum (KAl(SO4)2): Thường được sử dụng trong các ứng dụng đặc biệt như trong mỹ phẩm.

Ứng dụng của chất keo tụ

Chất keo tụ có rất nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau, bao gồm:

  • Xử lý nước uống: Loại bỏ các hạt bẩn, vi khuẩn, và các chất gây màu, mùi trong nước thô.
  • Xử lý nước thải: Giảm độ đục và loại bỏ các chất ô nhiễm, giúp làm sạch nước thải trước khi xả ra môi trường hoặc tái sử dụng.
  • Ngành công nghiệp giấy và bột giấy: Sử dụng để cải thiện quá trình lọc và nâng cao chất lượng sản phẩm giấy.

Lợi ích và hạn chế của việc sử dụng chất keo tụ

Việc sử dụng chất keo tụ mang lại nhiều lợi ích rõ rệt như tăng cường hiệu quả xử lý nước, tiết kiệm chi phí và thời gian. Tuy nhiên, nó cũng có những mặt hạn chế như có thể tạo ra lượng lớn bùn thải, yêu cầu quản lý vận hành nghiêm ngặt để tránh các vấn đề môi trường tiềm ẩn.

Kết luận

Chất keo tụ đóng một vai trò quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là trong xử lý nước. Với tính năng đặc trưng của mình, các chất keo tụ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả xử lý mà còn góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Việc hiểu rõ đặc điểm, cơ chế hoạt động và áp dụng đúng loại chất keo tụ sẽ đem lại hiệu quả tối ưu nhất cho doanh nghiệp và môi trường.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chất keo tụ":

Tính chất kéo và đặc điểm gãy của hợp kim Al và Al-Cu được xử lý bằng phương pháp ép kênh góc đồng đều (ECAP) Dịch bởi AI
Metals and Materials International - Tập 16 - Trang 709-716 - 2010
Trong bài báo này, các phôi nhôm tinh khiết và hợp kim Al-2 wt.%, 3 wt.%, và 5 wt.% Cu được xử lý thành công bằng phương pháp ép kênh góc đồng đều (ECAP) đến 10 lần mà không xảy ra nứt vỡ ở nhiệt độ phòng bằng khuôn có góc kênh là 110°. Các biến dạng lớn tác động lên các sản phẩm gia công dẫn đến mật độ đứt gãy cực cao, tinh chỉnh vi cấu trúc, và cuối cùng là vật liệu hạt siêu mịn. Các thử nghiệm kéo được thực hiện để kiểm tra chế độ gãy và hình thái mặt gãy của các mẫu Al và hợp kim Al-Cu đã qua xử lý ECAP. Đặc biệt, các tác động của số lần ép ECAP và hàm lượng Cu đã được nghiên cứu.
#Al alloys #ECAP #tensile properties #fracture characteristics #Cu content
Ứng dụng chất trợ keo tụ sinh học trong cải thiện chất lượng nước thải thủy sản
TÓM TẮT Nghiên cứu sử dụng hợp chất trích li từ gum hạt Muồng Hoàng Yến có nguồn gốc sinh học trong cải thiện chất lượng môi trường nước thải chế biến thủy sản. Kết quả của nghiên cứu cho thấy : Khi sử dụng gum hạt kết hợp với chất keo tụ PAC bước đầu cho kết quả cải thiện chất lượng môi trường nước thải thủy sản tương đối cao, hiệu quả giảm COD là 96%, SS giảm 80,4%, ni-tơ giảm 82% và phốt-pho giảm 78,67% . Qua đó cho thấy chất có nguồn gốc sinh học (gum hạt) có thể sử dụng cải thiện chất lượng nước thải chế biến thủy sản, từ đó từng bước cải thiện chất lượng nguồn nước tiếp nhận. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#chất keo tụ hóa học #chất trợ keo tụ #gum hạt #nước thải chế biến thủy sản
TĂNG THU DI TRUYỀN THỰC TẾVỀSINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG THÂN CÂY CỦA MỘT SỐGIỐNG KEO LÁ LIỀM SO VỚI GIỐNG NGUYÊN SẢN VÀ ĐẠI TRÀ TẠI QUẢNG TRỊ
TẠP CHÍ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP - Số 5 - Trang - 2024
Để xác định khả năng sinh trưởng và tăng thu di truyền của các lô hạt giống đã qua cải thiện thu hái từ vườn giống thế hệ 2 Keo lá liềm tạiCam Lộ, Quảng Trị so với lô hạt đại trà và nguyên sản; 9 nguồn hạt giống đã được đưa vào xây dựng 2 khảo nghiệm tăng thu di truyền Keo lá liềm tại vùng đồi và vùng cát Quảng Trị. Mỗi khảo nghiệm có diện tích 1 ha, được thiết kế thí nghiệm khối ngẫu nhiên không đầy đủ, 09 lô hạt, 5 lần lặp lại, 36 cây/ô, khoảng cách trồng 3 2 m cho cả hai lập địa. Cây trong khảo nghiệm tại vùng cát ở Lệ Xuyên có sinh trưởng chậm, đường kính trung bình đạt 1,9 cm, chiều cao đạt 2,7 m và thể tích đạt 0,6 dm3. Về chất lượng thân cây, chưa có sự khác biệt rõ rệt về chất lượng thân cây giữa các lô hạt nhưng đều cho chất lượng thân cây khá tốt. Khảo nghiệm tăng thudi truyền Keo lá liềm tại vùng đồi ở Cam Lộ giai đoạn 30 tháng tuổi, sinh trưởng đường kính của các nguồn hạt Keo lá liềm biến động từ 5,4 cm đến 6,5 cm, chiều cao biến động từ 5,4 m đến 6,9 m, thể tích biến động từ 6,6 đến 12 dm3. Các lô hạt của gia đình 44, 13 và 46 có độ duy trì trục thân vượt trội, lần lượt là 4,2; 3,6 và 3,7 điểm so với lô hạt sản xuất đại trà là 3,4 điểm. Về tăng thu di truyền thực tế, các lô hạt từ vườn giống chuyển hóa từ các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 tại Quảng Trị và Bình Thuận đều cho sinh trưởng tốt hơn so với lô hạt nguyên sản và đại trà. Lôhạt của các gia đình Keo lá liềm thu từ vườn giống thế hệ 2 Keo lá liềm có tăng thu di truyền thực tế về đường kính và chiều cao đạt từ 9 - 26% so vớilô hạt đại trà và từ 1 - 17% so với lô hạt nguyên sản. Các lô hạt của các gia đình 44,13 và 46 cho tăng thu di truyền rất cao về thể tích so với lô hạt sản xuất (80%, 73% và 60%) và lô hạt nguyên sản (55%, 50% và 37%). Các lô hạt cho tăng thu di truyền thực tế cao về đường kính, chiều cao và thể tích đều có tăng thu về các chỉ tiêu chất lượng thân cây cao hơn. Chất lượng thân cây của các lô hạt 44, 13 và 46 cũng đạt tăng thu từ 4 - 24% sovới lô hạt nguyên sản và từ 16 - 39% so với lô hạt đại trà.
#Keo lá liềm #giống nguyên sản # #tăng thu di truyền thực tế
KHẢO SÁT HIỆU QUẢ XỬ LÍ MÀU REACTIVE YELLOW 145 VÀ MÀU REACTIVE RED 194 BẰNG GUM TRÍCH LI TỪ HẠT CHÙM NGÂY (MORINGA OLEIFERA)
  Trong nghiên cứu này, đã nghiên cứu tạo ra chất keo tụ sinh học (gum) được trích l i từ hạt chùm  ngây làm chất keo tụ xử l í màu Reactive Yollow 145 và màu Reactive Red 194. Đặc tính của vật liệu được xác định bằng các phương pháp kính hiển vi điện tử quét (SEM), phương pháp phân tích FTIR. Hình ảnh chụp SEM cho thấy vật liệu thấy cấu trúc bề mặt của vật liệu sinh học gum trích l i từ hạt chùm ngây có sự xuất hiện của các lỗ rỗng tương đối mịn và các hạt gum phân bố tương đối đồng nhất trên bề mặt, phổ FTIR chỉ ra rằng vật liệu điều chế được có chứa các nhóm chức bề mặt –OH, –HC=O và C-O của vòng xyloglucan. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình keo tụ xử l í màu RY145 và màu Reactive Red 194 bao gồm: pH, nồng độ gum, nồng độ màu, tốc độ khuấy và thời gian khuấy. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy chất keo tụ sinh học (gum) được điều chế từ hạt chùm ngây có khả năng khử màu và COD, là vật liệu thân thiện với môi trường, có tiềm năng lớn trong việc ứng dụng vào việc xử lí màu nhuộm trong nước thải dệt nhuộm với hiệu suất khử màu RY145 và khử COD (tương ứng lần lượt: 87.77% và 76.92%) (tại pH = 9 , nồng độ gum (2000 mg/L), nồng độ màu (40 mg/L), tốc độ khuấy (60 vòng/phút), thời gian khuấy (55 phút) , hiệu suất màu RR194 và khử COD (tương ứng lần lượt: 89.31% và 80%) (tại pH = 7, nồng độ gum (3000 mg/L), nồng độ màu (20 mg/L), tốc độ khuấy (45 vòng/phút), thời gian khuấy (65 phút) .    
#chất keo tụ #gum #hạt chùm ngây #Reactive Yellow 145 #Reactive Red 194 #nước thải dệt nhuộm
Hoạt động thể chất kéo dài một năm và độ cứng vùng của động mạch ở người lớn tuổi: Nghiên cứu Nakanojo Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 109 - Trang 455-464 - 2010
Mục tiêu của chúng tôi là kiểm tra giả thuyết rằng hoạt động thể chất thường xuyên của người cao tuổi có liên quan đến việc giảm độ cứng động mạch, khám phá các đặc điểm của bất kỳ mối quan hệ liều/tác dụng nào, và xác định những đoạn của cây động mạch mà sự liên kết này rõ ràng nhất. Các tham gia (89 nam và 109 nữ, độ tuổi từ 65–84) đã đeo pedometer/accelerometer liên tục trong 1 năm. Số bước đi hàng ngày và thời gian hoạt động cường độ vừa (>3 đơn vị chuyển hóa, MET) được ghi lại. Vào cuối năm, một thiết bị phân tích dạng sóng tự động đã xác định vận tốc sóng mạch ở năm điểm ghi: gốc động mạch chủ, động mạch cảnh, động mạch cánh tay, động mạch đùi và động mạch chày. Sau khi điều chỉnh thích hợp theo giới tính, tuổi tác và huyết áp động mạch trung bình, tổng thể (vận tốc delta cánh tay-chày) và độ cứng động mạch trung tâm (vận tốc tim-đùi) cho thấy mối tương quan tiêu cực nhỏ nhưng có ý nghĩa thống kê với số bước đi hàng ngày và thời gian hoạt động >3 MET. Vận tốc tim-cảnh cũng có liên quan đến số bước đi. Trái lại, vận tốc tim-cánh tay và vận tốc đùi-chày không có liên quan đáng kể đến bất kỳ ước tính nào về hoạt động thường xuyên. Vận tốc tim-đùi và delta cánh tay-chày thấp hơn một cách đáng kể ở những người hoạt động thể chất, rõ ràng đạt mức tối thiểu ở các đối tượng có số bước vượt quá khoảng 6,600 bước/ngày và/hoặc tập thể dục hơn 16 phút/ngày với cường độ >3 MET. Dữ liệu hỗ trợ giả thuyết của chúng tôi, cho thấy mối liên hệ yếu nhưng có ý nghĩa thống kê giữa hoạt động thể chất thường xuyên và đánh giá sóng xung động động mạch ở người lớn tuổi. Các nghiên cứu tiếp theo được khuyến nghị để kiểm tra tính nhân quả của những mối liên hệ này và để khám phá lý do tại sao các mối quan hệ dường như rõ hơn ở các đoạn động mạch trung tâm so với các đoạn động mạch ngoại biên.
#hoạt động thể chất #độ cứng động mạch #người cao tuổi #nghiên cứu Nakanojo #vận tốc sóng xung #cường độ hoạt động
Một hồ sơ đa chỉ báo kéo dài 2000 năm từ phía đông Baffin Island, Canada Arctic cho thấy giai đoạn lạnh ở thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên Dịch bởi AI
Quaternary Research - Tập 75 - Trang 491-500 - 2011
Tóm tắt

Chúng tôi tạo ra một mô hình tái cấu trúc đa chỉ báo về sự thay đổi môi trường trong suốt hai thiên niên kỷ qua từ Hồ Itilliq, Baffin Island, Canada Arctic. Mô hình tái cấu trúc của chúng tôi dựa trên một mẫu sedimnet lõi bề mặt được xác định tuổi bằng đồng vị 210Pb và 14C, bao gồm các chỉ tiêu về chất hữu cơ (ví dụ: chlorophyll a; tỷ lệ carbon–nitrogen) và các quần xã côn trùng (Diptera: Chironomidae). Trong thiên niên kỷ vừa qua, điều kiện ít sinh sản nhất, và do đó suy ra là lạnh nhất, xảy ra vào khoảng năm 1700–1850 sau Công Nguyên, vào cuối thời kỳ Băng Giá Nhỏ. Hồ sơ trầm tích kéo dài 2000 năm cũng cho thấy một giai đoạn giảm deposit chất hữu cơ trong thế kỷ 6-7 sau Công Nguyên; kết hợp với một số hồ sơ khác có độ phân giải tương đương suốt thời gian này từ Baffin Island, chúng tôi đề xuất rằng giai đoạn lạnh này đã xảy ra ở quy mô khu vực. Một giai đoạn khí hậu lạnh tương đương đã xảy ra ở Alaska và tây Canada vào thời điểm này, cho thấy rằng dị thường khí hậu lạnh trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Công Nguyên có thể đã xảy ra xuyên suốt vùng Arctic. Sự gia tăng đáng kể về độ sản xuất sinh học trong thủy vực ở nhiều mức độ trofic được chỉ ra bằng các nồng độ chlorophyll a tăng lên kể từ năm 1800 sau Công Nguyên và nồng độ chironomid tăng lên kể từ năm 1900, cả hai đều đã đạt đến mức chưa từng có trong 2000 năm qua.

#thay đổi môi trường #trầm tích #chất hữu cơ #khí hậu lạnh #hồ Itilliq #Baffin Island
Đánh giá chất lượng nước thải xi mạ đồng (Cu2+) của chất keo tụ sinh học trích li từ hạt Muồng Hoàng Yến (Biogum)
Nghiên cứu đã đánh giá hiệu quả xử lí nước thải xi mạ nhân tạo với các thông số khảo sát ban đầu: pH = 5 ; Cu 2+ = 25 (mg/ 1L ) , sử dụng vật liệu keo tụ sinh học Biogum và vật liệu keo tụ hóa học PAC. Kết quả khảo sát trên đối tượng nước thải xi mạ Cu 2+ cho thấy hiệu suất cải thiện của Biogum ở liều lượng tối ưu đạt 83,11% trong khi PAC đạt chỉ 68,93% . Qua đó cho thấy vật liệu Biogum có thể đề xuất nghiên cứu thay thế vật liệu hóa học PAC. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";}
#chất keo tụ hóa học #chất keo tụ sinh học #keo tụ tạo bông #nước thải xi mạ đồng #Muồng Hoàng Yến.
Nghiên cứu ứng dụng Pectin từ vỏ bưởi làm chất trợ keo tụ sinh học trong xử lý nước thải
Bưởi là loại cây được trồng và tiêu thụ khá phổ biến ở Việt Nam. Trong quá trình tiêu thụ và chế biến đã thải ra một lượng lớn vỏ bưởi (ước tính lượng vỏ bưởi thải chiếm 25-30% theo khối lượng). Tuy nhiên vỏ bưởi hiện chưa được tận dụng và xử lý hiệu quả gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên do vỏ bưởi có chứa khoảng 30% pectin (theo khối lượng khô). Đa có các nhóm nghiên cứu tách chiết pectin để sử dụng trong chế biến thực phẩm, dược phẩm,... Nghiên cứu này đã xác định điều kiện tối ưu quá trình tách chiết pectin từ vỏ bưởi với việc khảo sát ảnh hưởng của pH, tỷ lệ dung môi chiết, nhiệt độ và thời gian ngâm chiết đến hiệu quả quá trình. Pectin tách chiết được sử dụng như chất trợ keo tụ sinh học kết hợp với PAC để xử lý TSS, COD trong nước thải. Kết quả nghiên cứu cho thấy: ở nhiệt độ 70-800C và thời gian ngâm chiết 60 phút, pH = 2, tỉ lệ dung môi chiết 75 ml/2,5 g vỏ bưởi khô, hiệu quả tách chiết pectin đạt cao nhất, khoảng 26,36 %; hiệu quả xử lý TSS và COD khi sử dụng pectin kết hợp với chất keo tụ PAC là khá cao, đạt tương ứng 91,5 và 65 %. Các nghiên cứu tiếp theo sẽ đánh giá đầy đủ hơn khả năng tách chiết và tận dụng pectin làm chất trợ keo tụ sinh học, đồng thời nghiên cứu ứng dụng pectin để xử lý kim loại nặng như Fe, Cr,... trong nước thải.
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LOẠI BỎ ĐỘ MÀU VÀ TỔNG CHẤT RẮN LƠ LỬNG TRONG NƯỚC RỈ RÁC NAM SƠN BẰNG PHƯƠNG PHÁP KEO TỤ ĐIỆN HÓA
Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 24 Số 1 - Trang 197 - 2020
   Dân số tăng nhanh đi kèm với quá trình đô thị là nguyên nhân chính tạo ra hàng triệu tấn chất thải rắn. Phương pháp phổ biến và thuận tiện nhất được lựa chọn tại hầu hết các nước đang phát triển để giải quyết vấn đề này là chôn lấp do chi phí cho công nghệ thấp và dễ dàng vận hành. Tuy nhiên, nước rỉ rác từ các ô chôn lấp lại là vấn đề khó khăn đối với các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý môi trường do nồng độ các chất gây ô nhiễm cao. Trong bài nghiên cứu này, một hệ thống keo tụ điện hóa quy mô phòng thí nghiệm với tám điện cực sắt đã được thiết kế để khảo sát hiệu suất loại bỏ TSS và độ màu trong nước rỉ rác Nam Sơn. Một loạt các yếu tố ảnh hưởng: cường độ dòng điện, thời gian điện phân, pH ban đầu của nước thải và khoảng cách điện cực đã được nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của quá trình xử lý. Kết quả cho thấy ở điều kiện tối ưu với cường độ dòng điện: 3A, thời gian điện phân: 60 phút, pH ban đầu của nước thải bãic hôn lấp: 8, khoảng cách điện cực: 1cm, hệ thống có thể loại bỏ khoảng 71,6% màu và 39,2% TSS trong nước rỉ rác. Từ khóa: Keo tụ điện hóa; nước rỉ rác Nam Sơn; điện cực sắt; TSS; độ màu. 
NGHIÊN CỨU DIỄN BIẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI TỪ AO NUÔI CÁ LÓC (Channa striata) LÓT BẠT: STUDY ON THE VARIANCE OF WATER QUALITY AND WASTEWATER TREATMENT OF SNAKEHEAD (Channa striata) FISH CULTURED IN LINED TANK POND
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 5 Số 1 - Trang 2300-2309 - 2021
Nghề nuôi cá lóc ngày càng được chú trọng trong xu hướng phát triển ngành thuỷ sản ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hình thức và quy mô nuôi cá được người dân áp dụng đa dạng, trong đó quy mô hộ gia đình thường khá phổ biến. Tuy nhiên, chất lượng nước trong ao nuôi chưa được quan tâm và kiểm soát tốt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng nước ao nuôi biến động qua từng thời điểm nuôi cá, lưu lượng xả thải khá lớn và đa phần là bị ô nhiễm hữu cơ và dưỡng chất. Kết quả xử lý nước thải ao nuôi cá lóc lót bạt bằng công nghệ plasma lạnh kết hợp keo tụ - tạo bông trên mô hình phòng thí nghiệm cho thấy, hiệu quả xử lý các chỉ tiêu SS, BOD5, COD, photpho và coliforms đạt trên 70%. Nước sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT. Tuy nhiên, độ dẫn điện và hợp chất ni-tơ trong nước vẫn chưa xử lý triệt để, cần được cải thiện. ABSTRACT Raising snakehead fish has been paid attention to the development of aquaculture in the Mekong Delta recently. The snakehead fish raising models and scale are very diverse. However, the variance of water quality in the lined tank of snakehead fish culture has not been paid much attention and well- controlled. Results of water quality monitoring in a lined tank pond showed that the water of the tank was polluted by nutrients and organic compounds. In this study, wastewater treatment of the lined tank of snakehead fish culture was performed by a combination of the coagulation-flocculation, sedimentation, and cold plasma technologies at a lab-scale model. The results showed that the effluent treatment efficiency of the model reached over 70% for SS, BOD5, COD, phosphorus, and coliforms. The quality of treated wastewater met the Vietnamese national regulation for industrial wastewater quality (QCVN 40:2011/BTNMT). However, the removal of nitrogen from the water via cold plasma was low effectiveness and electrical conductivity increased after treatment. It is necessary to be improved for further researches.  
#Bể nuôi cá lóc lót bạt #Chất lượng nước #Keo tụ - tạo bông #Plasma lạnh #Xử lý nước thải #Coagulation-flocculation #Cold plasma #Lined tank pond #Wastewater treatment #Water quality
Tổng số: 28   
  • 1
  • 2
  • 3