thumbnail

Wiley

SCOPUS (2008-2011,2013,2016-2023)SCIE-ISI

  1757-1146

  1757-1146

 

Cơ quản chủ quản:  BMC , BioMed Central Ltd.

Lĩnh vực:
Orthopedics and Sports Medicine

Các bài báo tiêu biểu

Impedance Spectroscopy
- 2005
Evgenij Barsoukov, J. Ross Macdonald
Cisplatin
- 1999
Bernhard Lippert
Surface Design: Applications in Bioscience and Nanotechnology
- 2009
Renate Förch, Holger Schönherr, A. Tobias A. Jenkins
Một định nghĩa đồng thuận và thang điểm cho giày chạy tối giản Dịch bởi AI
- 2015
Jean-François Esculier, Blaise Dubois, Clermont E. Dionne, Jean Leblond, Jean-Sébastien Roy
tóm tắtĐặt Vấn Đề

Mặc dù giày chạy tối giản có thể ảnh hưởng đến sinh học chạy và tỷ lệ chấn thương do kéo dài, thuật ngữ "tối giản" hiện đang được sử dụng mà không có tiêu chuẩn hóa. Mục tiêu của nghiên cứu này là đạt được sự đồng thuận về một định nghĩa tiêu chuẩn cho giày chạy tối giản và phát triển cũng như xác thực một thang điểm có thể được sử dụng để xác định mức độ tối giản của giày chạy, chỉ số Tối giản (MI).

Phương Pháp

Trong nghiên cứu điều chỉnh Delphi này, 42 chuyên gia từ 11 quốc gia đã hoàn thành bốn bảng hỏi điện tử về một định nghĩa tối ưu cho giày tối giản và các yếu tố cần đưa vào MI. Khi MI được phát triển theo sự đồng thuận, 85 người tham gia đã xếp hạng chủ quan các mẫu giày được phân bổ ngẫu nhiên từ tối giản nhất đến ít tối giản nhất và đánh giá mức độ tối giản của chúng bằng cách sử dụng thang điểm tương tự hình ảnh (VAS), trước khi đánh giá các mẫu giày cùng loại bằng MI. Một mẫu phụ gồm ba mươi người tham gia đã đánh giá lại cùng một đôi giày vào một thời điểm khác. Độ tin cậy hợp lệ và độ tin cậy giữa và trong phép đánh giá (hệ số tương quan intraclass [ICC]; Gwet's AC1) của MI đã được đánh giá.

Kết Quả

Định nghĩa sau đây về giày tối giản đã được 95% người tham gia đồng thuận: “Giày dép cung cấp sự can thiệp tối thiểu với chuyển động tự nhiên của bàn chân do linh hoạt cao, độ chênh lệch cao - thấp giữa gót chân và mũi bàn chân, trọng lượng và chiều cao ngăn xếp thấp, và không có thiết bị kiểm soát chuyển động và ổn định”. Các đặc điểm cần bao gồm trong MI là trọng lượng, độ linh hoạt, chênh lệch gót chân - mũi bàn chân, chiều cao ngăn xếp và thiết bị kiểm soát chuyển động/ổn định, mỗi phân cấp đều có trọng số như nhau (20%) trên tổng điểm cuối cùng. Tổng điểm MI có mối tương quan cao với VAS (r = 0.91). Một hiệu ứng xếp hạng có ý nghĩa (p < 0.001) xác nhận tính hợp lệ phân biệt của MI. Độ tin cậy giữa và trong phép đánh giá của tổng điểm MI được tìm thấy là rất tốt (ICC = 0.84-0.99) và cho các phân cấp trọng lượng, chiều cao ngăn xếp, chênh lệch gót chân - mũi bàn chân và độ linh hoạt (AC1 = 0.82-0.99), trong khi độ tin cậy giữa các phép đánh giá cho công nghệ là tốt (AC1 = 0.73).

Kết Luận

Định nghĩa tiêu chuẩn hóa về giày tối giản này được phát triển bởi một nhóm chuyên gia quốc tế sẽ cải thiện nghiên cứu trong tương lai về giày tối giản và các khuyến nghị lâm sàng. Tính hợp lệ và độ tin cậy thích hợp của MI sẽ cho phép phân biệt giày chạy dựa trên mức độ tối giản của chúng và có thể giúp giảm thiểu các chấn thương liên quan đến chuyển đổi giày.

Một bài tổng quan về chỉ số chức năng bàn chân và chỉ số chức năng bàn chân - phiên bản sửa đổi Dịch bởi AI
Tập 6 Số 1 - 2013
Elly Budiman‐Mak, Kendon J. Conrad, Jessica Mazza, Rodney M. Stuck
Tóm tắtĐặc điểm chung

Chỉ số chức năng bàn chân (FFI) là một công cụ tự báo cáo, đặc thù cho bàn chân, đo lường cơn đau và khuyết tật, đã được sử dụng rộng rãi để đo lường tình trạng sức khỏe bàn chân trong hơn hai mươi năm. Một phiên bản FFI sửa đổi (FFI-R) đã được phát triển để phản hồi lại những chỉ trích đối với FFI. Mục đích của bài tổng quan này là đánh giá các ứng dụng của FFI và FFI-R như đã được báo cáo trong tài liệu y học và phẫu thuật và giải quyết các đề xuất có trong tài liệu để cải thiện các chỉ số của FFI-R.

Phương pháp

Một cuộc tìm kiếm tài liệu có hệ thống từ cơ sở dữ liệu PubMed/Medline và Embase từ tháng 10 năm 1991 đến tháng 12 năm 2010 đã được thực hiện và đây là những nguồn tài liệu chính. Để làm phong phú thêm tài liệu tham khảo, cuộc tìm kiếm cũng được mở rộng sang các công cụ tìm kiếm BioMedLib và Scopus cũng như các phương pháp tìm kiếm thủ công. Các thuật ngữ tìm kiếm bao gồm FFI, điểm số FFI, FFI-R. Các yêu cầu bao gồm tóm tắt/bài báo đầy đủ, các ấn phẩm bằng tiếng Anh, và các bài viết có chứa thuật ngữ "khiếu nại/vấn đề về bàn chân". Các bài viết được chọn đã được xem xét kỹ lưỡng; EBM đã trích xuất dữ liệu từ tài liệu và tập hợp vào các bảng được thiết kế cho bài tổng quan này. EBM đã phân tích các bảng, KJC, JM, RMS đã xem xét và xác nhận nội dung của bảng. KJC và JM đã phân tích lại cơ sở dữ liệu gốc của FFI-R để cải thiện các chỉ số.

Kết quả

Tám mươi bài báo đã đủ điều kiện cho bài tổng quan này, các tóm tắt đã được biên soạn thành 12 bảng. FFI và FFI-R đã được sử dụng trong các nghiên cứu về rối loạn bàn chân và cổ chân trên 4700 người trên toàn thế giới. Thang FFI toàn phần hoặc các thang phụ và FFI-R đã được sử dụng làm các chỉ số kết quả trong nhiều nghiên cứu; các công cụ mới đã được phát triển dựa trên các thang phụ của FFI. Thang FFI toàn phần đã được chuyển thể/dịch sang các nền văn hóa khác. Các thuộc tính tâm lý học của FFI và FFI-R được báo cáo trong bài tổng quan này. Phân tích lại các thang phụ của FFI-R xác nhận tính đơn chiều, và các loại phản hồi của bảng hỏi FFI-R đã được chỉnh sửa thành bốn phản hồi để dễ sử dụng hơn.

Kết luận

Bài tổng quan này chỉ giới hạn ở các bài báo được xuất bản bằng tiếng Anh trong hai mươi năm qua. FFI được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu; công cụ này đã tiên phong trong việc đo lường có thể định lượng tình trạng sức khỏe của bàn chân, và do đó đã chuyển đổi quan điểm về các chỉ số kết quả sang dữ liệu cứng chủ quan, tập trung vào bệnh nhân, hợp lệ, đáng tin cậy và nhạy cảm. Các mục FFI-R đã được chỉnh sửa thành bốn loại phản hồi sẽ nâng cao khả năng thân thiện với người dùng trong việc đo lường sức khỏe bàn chân.

Geological History of Britain and Ireland
- 2012
Woodcock, Strachan
Sự gia tăng nhiệt độ da có phải là yếu tố tiên đoán cho loét bàn chân thần kinh ở những người mắc bệnh tiểu đường không? Một đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp Dịch bởi AI
Tập 6 Số 1 - 2013
Vanessa J Houghton, Virginia M Bower, David Chant
Tóm tắtGiới thiệu

Mục tiêu của bài đánh giá hệ thống này là đánh giá độ mạnh của các nghiên cứu hiện có để trả lời câu hỏi: Sự gia tăng nhiệt độ da có thể dự đoán loét bàn chân thần kinh ở những người mắc bệnh tiểu đường không?

Phương pháp

Nghiên cứu này là một bài đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp về việc theo dõi nhiệt độ trong việc dự đoán và ngăn ngừa loét bàn chân tiểu đường. Hai nhà nghiên cứu đã tiến hành một cuộc tìm kiếm tài liệu cho tất cả các bài báo liên quan từ năm 1960 cho đến tháng 7 năm 2011. Trong quá trình này, các cơ sở dữ liệu sau đã được tìm kiếm: MEDLINE, Science Direct, AMED, Australian Medical Index, APAIS-Health, ATSIhealth, EMBASE, Web of Science và OneSearch. Các từ khóa được sử dụng trong cuộc tìm kiếm này bao gồm bệnh tiểu đường, các biến chứng ở chân, loét, theo dõi nhiệt độ, dự đoán và ngăn ngừa.

Kết quả

Kết quả của phân tích tổng hợp hỗ trợ lý thuyết rằng sự gia tăng nhiệt độ da có thể dự đoán loét chân khi so với cùng một vị trí trên chi đối diện. Lý thuyết rằng có một nhiệt độ chân trung bình có thể được sử dụng làm chuẩn để theo dõi sự thay đổi bệnh lý không được hỗ trợ bởi phân tích tổng hợp này.

Kết luận

Các kết luận được rút ra từ bài đánh giá này dựa trên bằng chứng khoa học tốt nhất hiện có trong lĩnh vực này. Mục đích của nghiên cứu này là cải thiện quá trình ra quyết định lâm sàng và khuyến khích các biện pháp phù hợp được sử dụng để dự đoán và ngăn ngừa loét ở những người mắc bệnh tiểu đường có nguy cơ cao đối với các biến chứng ở chân. Dựa trên các nghiên cứu chất lượng trong lĩnh vực này, kết quả của bài đánh giá này đã chỉ ra rằng việc theo dõi nhiệt độ là một phương pháp hiệu quả để dự đoán, và do đó ngăn ngừa, loét bàn chân tiểu đường.

Chân phẳng linh hoạt ở trẻ em: Chúng ta đang đo lường như thế nào và liệu chúng ta có đang làm đúng không? Một bài tổng quan hệ thống Dịch bởi AI
Tập 11 Số 1 - 2018
Helen Banwell, Maisie E. Paris, Shylie Mackintosh, Cylie Williams
Tóm tắtĐặt vấn đề

Chân phẳng linh hoạt là một hiện tượng bình thường ở trẻ em phát triển một cách điển hình, tuy nhiên, một số trẻ em có chân phẳng lại gặp phải tình trạng đau và suy giảm chức năng chi dưới. Thách thức đối với các chuyên gia y tế là xác định khi nào tư thế bàn chân vượt ra ngoài những gì mong đợi và có thể cần can thiệp. Chẩn đoán chân phẳng linh hoạt thường dựa trên các biện pháp chẩn đoán hình ảnh hoặc lâm sàng, nhưng độ hợp lệ và độ tin cậy của các biện pháp này đối với dân số nhi khoa chưa được hiểu rõ. Mục tiêu của bài tổng quan hệ thống này là điều tra cách mà tư thế bàn chân ở trẻ em được định nghĩa và đo lường trong tài liệu, và liệu các đặc tính tâm lý đo lường của các biện pháp này có hỗ trợ cho chẩn đoán nào không.

Phương pháp

Các cơ sở dữ liệu điện tử (MEDLINE, CINAHL, EMBASE, Cochrane, AMED, SportDiscus, PsycINFO, và Web of Science) đã được tìm kiếm một cách hệ thống vào tháng 1 năm 2017 cho các nghiên cứu thực nghiệm nơi mà người tham gia được chẩn đoán chân phẳng linh hoạt và có độ tuổi từ 18 trở xuống. Các kết quả quan tâm là các biện pháp và định nghĩa tư thế bàn chân được sử dụng. Các bài báo bổ sung được tìm kiếm nếu được trích dẫn liên quan đến các đặc tính tâm lý đo lường của các biện pháp đã sử dụng.

Kết quả

Trong số 1101 hồ sơ độc nhất được xác định qua tìm kiếm, 27 nghiên cứu phù hợp với tiêu chí đưa vào liên quan đến 20 biện pháp tư thế bàn chân và 40 định nghĩa về chân phẳng linh hoạt ở trẻ em. Thêm 18 trích dẫn đã được tìm kiếm liên quan đến các đặc tính tâm lý đo lường của các biện pháp này. Ba biện pháp được coi là hợp lệ và đáng tin cậy, đó là FPI‐6 > + 6 cho trẻ từ 3 đến 15 tuổi, chỉ số vòm Staheli > 1.07 cho trẻ từ 3 đến 6 tuổi và ≥ 1.28 cho trẻ từ 6 đến 9 tuổi, và chỉ số Chippaux‐Smirak > 62.7% ở trẻ từ 3 đến 7 tuổi, > 59% ở trẻ từ 6 đến 9 tuổi và ≥ 40% cho trẻ từ 9 đến 16 tuổi. Không có biện pháp nào khác được phát hiện là hợp lệ cho dân số nhi khoa.

Kết luận

Không có tiêu chí chẩn đoán chân phẳng ở trẻ em được chấp nhận phổ biến nào được tìm thấy trong tài liệu hiện có, và dữ liệu tâm lý cho các biện pháp và định nghĩa tư thế bàn chân sử dụng còn hạn chế. Các kết quả của bài tổng quan này chỉ ra rằng FPI – 6, chỉ số vòm Staheli hoặc chỉ số Chippaux‐Smirak nên được ưu tiên sử dụng như phương pháp đo lường tư thế bàn chân ở trẻ em trong các nghiên cứu trong tương lai.

Clinical and bacteriological profile of diabetic foot infections in a tertiary care
Tập 13 - Trang 1-8 - 2020
Teik Chiang Goh, Mohd Yazid Bajuri, Sivapathasundaram C. Nadarajah, Abdul Halim Abdul Rashid, Suhaila Baharuddin, Kamarul Syariza Zamri
Diabetic foot infection is a worldwide health problem is commonly encountered in daily practice. This study was conducted to identify the microbiological profile and antibiotic sensitivity patterns of causative agents identified from diabetic foot infections (DFIs). In addition, the assessment included probable risk factors contributing to infection of ulcers that harbour multidrug-resistant organisms (MDROs) and their outcomes. We carried out a prospective analysis based on the DFI samples collected from 2016 till 2018. Specimens were cultured with optimal techniques in addition to antibiotic susceptibility based on recommendations from The Clinical and Laboratory Standards Institute (CLSI). A total of 1040 pathogens were isolated with an average of 1.9 pathogens per lesion in 550 patients who were identified with having DFIs during this interval. A higher percentage of Gram-negative pathogens (54%) were identified as compared with Gram-positive pathogens (33%) or anaerobes (12%). A total of 85% of the patients were found to have polymicrobial infections. Pseudomonas aeruginosa (19%), Staphylococcus aureus (11%) and Bacteroides species (8%) appeared to be the predominant organisms isolated. In the management of Gram-positive bacteria, the most efficacious treatment was seen with the use of Vancomycin, while Imipenem and Amikacin proved to be effective in the treatment of Gram-negative bacteria. DFI’s are common among Malaysians with diabetes, with a majority of cases displaying polymicrobial aetiology with multi-drug resistant isolates. The data obtained from this study will be valuable in aiding future empirical treatment guidelines in the treatment of DFIs. This study investigated the microbiology of DFIs and their resistance to antibiotics in patients with DFIs that were managed at a Tertiary Care Centre in Malaysia.
Ảnh hưởng của đế giày tùy chỉnh và đế giày giả đến áp lực ở gan bàn chân Dịch bởi AI
- 2013
Chris J McCormick, Daniel R. Bonanno, Karl B Landorf
Tóm tắtĐặt vấn đề

Hiệu quả của đế giày đã được đánh giá trong nhiều thử nghiệm lâm sàng với các đế giày giả được sử dụng làm can thiệp đối chứng trong ít nhất 10 thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, các tác động cơ học và độ tin cậy của đế giả hiếm khi được định lượng. Nghiên cứu này nhằm mục đích: (i) so sánh tác động đến áp lực ở lòng bàn chân của ba loại đế giày giả với một đế giày tùy chỉnh, và (ii) xác định độ tin cậy và lợi ích dự kiến của từng điều kiện chỉnh hình.

Phương pháp

Ba mươi người trưởng thành trong độ tuổi từ 18 đến 51 đã tham gia nghiên cứu này. Tại thời điểm 0 và 4 tuần, dữ liệu về áp lực ở lòng bàn chân được thu thập cho gót chân, giữa bàn chân và đầu bàn chân bằng hệ thống pedar®-X trong giày cho năm điều kiện được phân bổ ngẫu nhiên: (i) chỉ giày, (ii) đế giày tùy chỉnh, (iii) đế giày giả polyethylene định hình, (iv) đế giày giả EVA định hình, và (v) đế giày giả EVA phẳng. Tại buổi thu thập dữ liệu ban đầu, mỗi người tham gia đã hoàn thành một Bảng hỏi Độ tin cậy/Lợi ích kỳ vọng (CEQ) để xác định độ tin cậy và lợi ích kỳ vọng của từng điều kiện chỉnh hình.

Kết quả

So với chỉ giày ở tuần 0, đế giày giả polyethylene định hình là điều kiện duy nhất không có tác động đáng kể đến áp lực đỉnh ở bất kỳ vùng nào của bàn chân. Ngược lại, đế giày giả EVA định hình, đế giày giả EVA phẳng và đế giày tùy chỉnh đã làm giảm đáng kể áp lực đỉnh ở gót chân. Tại giữa bàn chân bên trong, tất cả các đế giả đều cung cấp hiệu ứng giống như chỉ giày, điều này tương ứng với các hiệu ứng khác biệt đáng kể so với đế giày tùy chỉnh. Không có sự khác biệt về áp lực đỉnh giữa các điều kiện ở các vùng khác như giữa bàn chân ngoài và đầu bàn chân. Khi so sánh các điều kiện ở tuần 4, sự khác biệt giữa các điều kiện giống như các phát hiện quan sát được ở tuần 0. Về độ tin cậy và lợi ích kỳ vọng, tất cả các điều kiện chỉnh hình đều được coi là giống nhau ngoại trừ đế giày giả polyethylene định hình, điều này được coi là ít đáng tin cậy hơn và ít khả năng mang lại lợi ích hơn.

Kết luận

Những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy rằng tất cả các đế giày giả được kiểm tra đều có tác động giống nhau đến áp lực ở lòng bàn chân cả ở giữa bàn chân và đầu bàn chân như một đôi giày đơn. Tuy nhiên, đế giày giả EVA định hình và đế giày giả EVA phẳng đã giảm đáng kể áp lực đỉnh dưới gót chân, điều này tương tự như đế giày tùy chỉnh. Ngược lại, đế giày giả polyethylene định hình không có tác động đáng kể đến áp lực ở lòng bàn chân và tương đương với chỉ giày ở tất cả các vùng của bàn chân. Do đó, áp lực ở lòng bàn chân thấp hơn được ghi nhận dưới gót chân với một số đế giả, nhưng không phải với những đế khác. Quan trọng là, các người tham gia cảm nhận đế giày giả polyethylene – loại đế giày không có tác động đến áp lực bàn chân – là đế giày ít đáng tin cậy nhất và ít có khả năng mang lại lợi ích nhất. Điều này có thể rất quan trọng cho thiết kế của các thử nghiệm lâm sàng trong tương lai vì nó có thể tạo ra các tác động gây nhiễu dẫn đến kết quả không chính xác. Những phát hiện này cung cấp một số bằng chứng cho các tác động cơ học, độ tin cậy điều trị và lợi ích kỳ vọng của các đế giày giả, điều này cần được xem xét khi chúng được sử dụng làm can thiệp đối chứng trong một thử nghiệm lâm sàng.