thumbnail

Springer Science and Business Media LLC

 

  2536-9660

 

Cơ quản chủ quản:  N/A

Lĩnh vực:

Các bài báo tiêu biểu

Rối loạn cơ xương khớp liên quan đến công việc ở các nhà vật lý trị liệu tại Ai Cập Dịch bởi AI
- 2021
W.M. Abutaleb, Aliaa Rehan Youssef
Tóm tắt Thông tin nền

Các nhà vật lý trị liệu (PTs) thường xuyên phải đối mặt với những rối loạn cơ xương khớp liên quan đến công việc (WMSDs). Có rất ít bằng chứng về tỷ lệ mắc những chấn thương này và các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn ở các nhà vật lý trị liệu Ai Cập. Nghiên cứu này nhằm ước tính tỷ lệ WMSDs trong số các PT Ai Cập cũng như các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn và các chiến lược đối phó của nhà trị liệu. Hơn nữa, nghiên cứu đã điều tra mối liên hệ giữa WMSDs và các yếu tố kinh tế xã hội.

Kết quả

Ba trăm tám mươi lăm người tham gia đủ điều kiện đã hoàn thành cuộc khảo sát. Tỷ lệ mắc WMSDs là 99,5%. Năm vùng cơ thể bị ảnh hưởng nhiều nhất là lưng dưới (69,1%), cổ (65,7%), vai (47,7%), cổ tay/tay (39,1%) và lưng trên (37,0%). Các nhà trị liệu đánh giá các tư thế không thoải mái và việc xử lý bệnh nhân nặng là những yếu tố dễ dẫn đến chấn thương nhất. Về các chiến lược đối phó, việc tìm kiếm sự giúp đỡ không chính thức từ đồng nghiệp để điều trị các triệu chứng liên quan đến chấn thương và thay đổi tư thế của các nhà trị liệu và bệnh nhân trong quá trình làm việc được các PT sử dụng nhiều nhất. Tổng quan, tỷ lệ chấn thương ở các nữ nhà trị liệu cao hơn so với nam (Cramer’s V < 0,5, p ≤ 0,05); ngoại trừ lưng trên ( p > 0,05). Trình độ học vấn và làm việc tại nhiều cơ sở đồng thời (các phòng khám công và tư) có mối liên hệ đáng kể với việc gặp chấn thương ở lưng trên ( V = 0,14, p = 0,049 và V = 0,178, p = 0,002, tương ứng) và cổ ( V = 0,16, p = 0,019 và V = 0,142, p = 0,020, tương ứng). WMSDs không có mối liên quan đến kinh nghiệm hoặc chuyên môn của các nhà trị liệu ( p > 0,05).

Kết luận

Các chấn thương WMSDs ở các nhà trị liệu vật lý là phổ biến ở Ai Cập, đặc biệt là ở nữ, những nhà trị liệu có trình độ học vấn thấp hơn, và những người làm việc tại nhiều cơ sở đồng thời.

Nhận thức về các yếu tố nguy cơ đột quỵ trong số nhân viên không giảng dạy của Trường Đại học Nnamdi Azikiwe, Cơ sở Nnewi, Tỉnh Anambra, Nigeria Dịch bởi AI
Tập 26 Số 1 - 2021
Uchenna Prosper Okonkwo, Favour Nnenna Uzuh, Maduaburochukwu Joseph Nwankwo, Emmanuel Ikechukwu Okoye, Joseph Onuwa Ummuna, Emeka Sylvester Igwe, Stanley Monday Maduagwu, Kenneth Umezulike Ani, Uzoamaka Nwakaego Akobundu, Chiamaka Ann Nwanne
Tóm tắt Thông tin nền

Tỷ lệ đột quỵ đang gia tăng ở Nigeria do thiếu nhận thức về các yếu tố gây nguy cơ. Do đó, cần có kiến thức và nhận thức tốt về các yếu tố nguy cơ đột quỵ trong cộng đồng. Nghiên cứu này đã đánh giá mức độ nhận thức về các yếu tố nguy cơ đột quỵ trong số nhân viên không giảng dạy tại Trường Đại học Nnamdi Azikiwe, Cơ sở Nnewi, Nigeria.

Kết quả

Phần lớn các tham gia nghiên cứu là nữ, 89 (69%), và có bằng sau đại học, 84 (65.1%). Tổng số có 129 người tham gia khảo sát, trong đó 91 (70.5%) biết đến thuật ngữ “đột quỵ.” Các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất là huyết áp cao (86%), căng thẳng (74.4%), và thiếu vận động (63.6%). Nghiên cứu cho thấy nhận thức về các yếu tố nguy cơ đột quỵ trong số người tham gia là rất kém (40.3%).

Kết luận

Nhận thức về đột quỵ là kém trong số các người tham gia có nguy cơ cao dù họ có trình độ học vấn cao. Những người tham gia nữ, có trình độ sau đại học và làm việc trong vai trò nhân viên không giảng dạy cao cấp, có nhận thức tốt hơn về các yếu tố nguy cơ đột quỵ so với các đồng nghiệp nam. Điều này cho thấy cần tăng cường các chiến dịch nâng cao nhận thức về đột quỵ trong cộng đồng.

Xác định mối quan hệ giữa tư thế và đau lưng dưới ở bệnh nhân: một đánh giá hồi cứu Dịch bởi AI
Tập 26 Số 1 - 2021
Sai Kripa, Harmanpreet Kaur
Tóm tắt

Tư thế là "sự thái độ của cơ thể hoặc cách sắp xếp các chi khi đứng hoặc ngồi." Có nhiều ví dụ về các tư thế khác nhau bao gồm tư thế lordotic, tư thế swayback, lưng phẳng và nghiêng xương chậu ra trước. Mọi người có thể xem đau như một cảm giác hoặc cảm xúc khó chịu mà họ trải nghiệm trong nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Cụ thể, đau lưng dưới có thể là một căn bệnh dai dẳng và đáng sợ đối với nhiều người, những người thường hồi phục mà không cần sự giúp đỡ của chuyên gia y tế hay điều trị nào đó chỉ bằng cách thay đổi tư thế hoặc thực hiện các động tác. Nhiều yếu tố khác nhau dẫn đến đau lưng dưới ngoài lỗi tư thế, chẳng hạn như tuổi tác, lối sống ít vận động, lo âu và giấc ngủ. Tuy nhiên, đối với đau lưng, tư thế đã trở thành vấn đề ăn sâu trong suy nghĩ của mọi người. Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đã hướng dẫn mọi người điều chỉnh tư thế của họ để chống lại đau lưng. Khi con người già đi, tư thế trở nên xấu hơn, nhưng điều này không có vẻ làm đau. Nếu bất kỳ ai không thể di chuyển cơ thể của họ, điều đó không có nghĩa là họ gặp vấn đề liên quan đến tư thế; đó thực sự là do vấn đề liên quan đến chuyển động. Một nghiên cứu đã chứng minh rằng không có sự khác biệt trong góc lordotic của dân số có vấn đề với đau lưng dưới. Có sự suy giảm về phạm vi và tốc độ của các động tác được thực hiện. Những gì quan trọng là chuyển động chứ không phải hình thức đứng hay ngồi. Mục tiêu chính của bài báo này là nâng cao hiểu biết và nhận thức về mối liên hệ giữa tư thế và đau lưng dưới, vì vậy, khi nói về các nghiên cứu gần đây, họ đã quan sát thấy không có mối liên hệ nào giữa tư thế và đau lưng dưới. Có nhiều nghiên cứu được công bố để hỗ trợ bằng chứng này. Mọi người thường gọi sự quan trọng của tư thế và sự căn chỉnh khi thực hiện các bài tập nặng như deadlift, nhảy lên hoặc bất kỳ hoạt động mệt nhọc nào. Do đó, sự thúc giục viết một bài báo về chủ đề này là để thay đổi suy nghĩ của nhiều người đang lo lắng về những lỗi tư thế hoặc hình thức của họ bằng cách cung cấp thông tin về việc thay đổi tư thế tĩnh của họ để phù hợp với một tiêu chuẩn lý tưởng nào đó và duy trì chuyển động để cải thiện chức năng của họ.

Thái độ của sinh viên đại học ngành vật lý trị liệu đối với việc sử dụng mạng xã hội cho mục đích học tập tại Đại học King Saud, Ả Rập Saudi Dịch bởi AI
- 2020
Afaf A. M. Shaheen, Fatim F. Alanazi, Lama B. Alrashid, Raghad A. Almadani, Shaden S. Altamrah, Shahad Z. Almusallam, Syamala Buragadda, Ganeswara Rao Melam
Tóm tắt Đặt vấn đề

Mạng xã hội đã trở thành một phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là trong số sinh viên đại học. Việc sử dụng rộng rãi mạng xã hội bởi sinh viên khiến nó trở thành một công cụ hấp dẫn cho các cơ sở giáo dục. Do đó, nghiên cứu này nhằm xác định thái độ của sinh viên vật lý trị liệu (PT) đối với việc sử dụng mạng xã hội cho mục đích học tập, đánh giá sự khác biệt về thái độ giữa các giới tính, và đánh giá lợi ích của việc sử dụng mạng xã hội trong quá trình học tập. Trong nghiên cứu cắt ngang mô tả này, dữ liệu được thu thập từ 158 sinh viên PT đại học tại Đại học King Saud (KSU) ở Riyadh thông qua một bảng hỏi tự báo cáo đặc chế.

#mạng xã hội #vật lý trị liệu #thái độ sinh viên #giáo dục #học tập
Effect of intradialytic aerobic exercise on patients with diabetic nephropathy
- 2019
Abdel Raoof A. Neveen, El Nahas G. Nesreen, Marae K. Nadia, Galal M. Al Shaimaa
Thái độ và niềm tin đối với đau lưng dưới (LBP) trong số các nhà vật lý trị liệu tại Tây Ban Nha Dịch bởi AI
- 2022
Sebastián Eustaquio Martín Pérez, Lucía Llanos González, Irene Acosta Acevedo, Raúl Bilbao Barrera, Jose Luis Alonso Pérez, Eleuterio A. Sánchez Romero, María Dolores Sosa Reina, Isidro Miguel Martín Pérez, Jorge Hugo Villafañe
Tóm tắt Đối tượng nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu này là để điều tra thái độ và niềm tin của các nhà vật lý trị liệu Tây Ban Nha đối với việc chẩn đoán và quản lý đau lưng dưới (LBP). Một nghiên cứu mô tả, cắt ngang đã được tiến hành theo hướng dẫn STROBE từ ngày 18 tháng 12 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022. Một cuộc khảo sát trực tuyến đã được phát triển dựa trên Thang đo Thái độ và Niềm tin về Đau cho Vật lý trị liệu (PABS-PT), một công cụ tự quản lý đã được kiểm chứng và đáng tin cậy được phát triển để đánh giá sức mạnh của hai định hướng điều trị khả thi của các nhà vật lý trị liệu đối với chẩn đoán và quản lý LBP. Những người trả lời được chọn thông qua kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện không xác suất, và các tiêu chí lựa chọn là (1) các nhà vật lý trị liệu đang hành nghề không bị hạn chế về giới tính và thời gian công tác, (2) các nhà vật lý trị liệu đã làm việc cả trong môi trường công cộng và tư nhân, và (3) các nhà vật lý trị liệu đã được đăng ký chính thức không bị hạn chế về địa điểm hành nghề tại Tây Ban Nha. Dữ liệu khảo sát đã được thu thập và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS Statistic 28 (IBM®).

Kết quả

Tổng cộng ba trăm tám mươi một bảng câu hỏi đã được đưa vào phân tích (F;n=151, M;n=230). Liên quan đến chẩn đoán, những người trả lời cho biết tổn thương mô là đủ để giải thích cho cơn đau lan tỏa và kéo dài, nhưng chủ yếu là do các yếu tố tâm lý. Bên cạnh đó, theo những người được khảo sát, chẩn đoán không nên chỉ tập trung vào các xét nghiệm hình ảnh mà còn phải dựa vào các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng. Tuy nhiên, mối quan hệ yếu giữa tổn thương khách quan và cường độ đau cảm nhận, cũng như mối quan hệ yếu giữa tư thế và sự phát triển hoặc làm nặng thêm LBP, dường như không rõ ràng đối với các nhà vật lý trị liệu. Từ góc độ điều trị, chúng tôi có thể cho rằng các chuyên gia cam kết duy trì hoạt động thể chất phù hợp và cá nhân hóa như một phương pháp điều trị hàng đầu trong quản lý cơn đau.

Kết luận

Phần lớn các nhà vật lý trị liệu tại Tây Ban Nha có kiến thức cập nhật về mô hình sinh học - tâm lý - xã hội trong việc chăm sóc cơn đau. Tuy nhiên, về thái độ và niềm tin đối với LBP, vẫn còn những nội dung và hành vi dựa trên các mô hình bảo vệ cột sống không thuận lợi cho việc quản lý cơn đau chủ động.

Hiệu quả của TheraTogs trục đối với mẫu đi lại ở trẻ em mắc chứng bại não kiểu vận động không kiểm soát: một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng Dịch bởi AI
- 2021
Shamekh El-Shamy, Ehab Mohamed Abd El-Kafy
Tóm tắt Đặt vấn đề

TheraTogs thúc đẩy cảm giác vị trí của trẻ em mắc chứng bại não và cải thiện độ căng cơ bất thường, sự cân bằng tư thế, sự cân bằng và đi lại. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra hiệu quả của quần áo chỉnh hình TheraTogs đối với mẫu đi lại ở trẻ em mắc chứng bại não kiểu vận động không kiểm soát. Ba mươi trẻ em mắc chứng bại não kiểu vận động không kiểm soát đã được lựa chọn cho nghiên cứu kiểm soát ngẫu nhiên này. Họ đã được phân ngẫu nhiên vào (1) nhóm thử nghiệm nhận quần áo chỉnh hình TheraTogs (12 giờ/ngày, 3 ngày/tuần) cộng với vật lý trị liệu truyền thống trong 3 tháng liên tiếp và (2) nhóm đối chứng chỉ nhận chương trình vật lý trị liệu truyền thống trong cùng thời gian. Các tham số đi lại đã được đo lường tại thời điểm đầu và sau 3 tháng can thiệp bằng phương pháp phân tích chuyển động Pro-Reflex.

Kết quả

Các trẻ em trong cả hai nhóm đều cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các tham số đi lại (P < 0.05), với sự cải thiện đáng kể hơn ở nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng.

Kết luận

Việc sử dụng TheraTogs có thể có tác động tích cực để cải thiện mẫu đi lại ở trẻ em mắc chứng bại não kiểu vận động không kiểm soát.

Đăng ký thử nghiệm

Thử nghiệm này đã được đăng ký tại ClinicalTrial.gov PRS (NCT03037697).

Validation of an Arabic translation of the Functional Mobility Assessment (FMA) tool for assistive mobility device users
- 2022
Hassan Izzeddin Sarsak
Abstract Background

Functional mobility assessment (FMA) tool is a self-report questionnaire developed to measure users’ satisfaction with assistive mobility devices while performing activities of daily living.

Purpose

To validate an Arabic translation of the FMA tool for Arabic-speaking assistive mobility devices users.

Methods

A committee of 2 bilingual qualified occupational therapists translated the English version into Arabic which was verified by back translation. The final versions were administered to bilingual assistive mobility devices users. The participants were randomly assigned to answer either the English or Arabic version of the FMA first, followed by answering the FMA in the other language. The scores obtained were tested for agreement using the kappa statistic.

Results

Participants’ (n=52), 28 were males and 24 were females, average participant age was 39.4 years old and had used an assistive mobility device for 6.4 years. We found a significant moderate agreement between the scores obtained from the two versions (p<0.000). The kappa measurement of agreement was 0.59 (95% confidence interval, 0.48–0.70).

Conclusion

The FMA is now available in Arabic, and it is an appropriate measure for use in research and clinical practice to quantify satisfaction with a functional mobility among assistive mobility device users. Further studies should test its psychometric properties.