Skin Pharmacology and Physiology

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Các Nang Tóc - Một Đường Nạp và Lưu Trữ Hiệu Quả Cho Các Chất Bôi Ngoài Da Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 21 Số 3 - Trang 150-155 - 2008
Jürgen Lademann, Fanny Knorr, Heike Richter, Ulrike Blume‐Peytavi, Annika Vogt, C. Antoniou, Wolfram Sterry, Alexa Patzelt

Trong quá khứ, người ta cho rằng con đường liên bào là con đường duy nhất có liên quan đến việc thẩm thấu các chất bôi ngoài da. Các kết quả gần đây về sự thâm nhập qua nang tóc được thu thập tại Trung tâm Sinh lý Học Da liễu Thí nghiệm và Ứng dụng, Charité – Universitätsmedizin Berlin, Đức, nhấn mạnh rằng các nang tóc đại diện cho một con đường thẩm thấu rất quan trọng và hiệu quả, cũng như là một kho chứa cho các chất được bôi ngoài da.

Các liệu pháp chống oxy hóa trong việc chữa lành vết thương: Hướng dẫn lâm sàng về các sản phẩm hiện có trên thị trường Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 24 Số 3 - Trang 113-126 - 2011
Sarah Fitzmaurice, Raja K. Sivamani, R. Rivkah Isseroff

Nhiều khía cạnh của quá trình chữa lành vết thương dưới sự kiểm soát của hệ số oxi hóa cần một sự cân bằng tinh tế giữa stress oxy hóa và chất chống oxy hóa. Trong khi sinh lý bình thường của quá trình chữa lành vết thương phụ thuộc vào các mức độ thấp của các gốc oxy phản ứng và stress oxy hóa, sự tiếp xúc quá mức với stress oxy hóa dẫn đến việc chữa lành vết thương kém. Các chất chống oxy hóa được giả thuyết rằng giúp kiểm soát stress oxy hóa của vết thương và từ đó tăng tốc độ chữa lành vết thương. Nhiều loại chất chống oxy hóa có sẵn trên thị trường mà không cần đơn thuốc hoặc theo toa, nhưng chỉ có một loại, Medihoney®, đã được FDA phê duyệt đặc biệt cho việc chữa lành vết thương. Ở đây, chúng tôi xem xét bằng chứng hiện có về việc sử dụng các chất chống oxy hóa cho việc chữa lành vết thương, cùng với việc xem xét các nghiên cứu trên động vật và lâm sàng liên quan. Các sản phẩm tự nhiên và các chất chống oxy hóa được chiết xuất từ thiên nhiên đang trở nên phổ biến hơn, và chúng tôi cụ thể xem xét bằng chứng về việc sử dụng các chất chống oxy hóa chiết xuất từ thiên nhiên trong việc chữa lành vết thương. Liệu pháp chống oxy hóa cho việc chữa lành vết thương hứa hẹn, nhưng chỉ có một vài nghiên cứu trên động vật và ngay cả ít nghiên cứu lâm sàng hơn nữa có sẵn. Vì chỉ có một vài sản phẩm đã trải qua việc phê duyệt của FDA, người tiêu dùng được khuyên nên kiểm tra độ tinh khiết và các tạp chất của chúng trước khi sử dụng, và điều này có thể yêu cầu liên hệ trực tiếp với các công ty cung cấp chúng. Là một lĩnh vực khoa học, việc sử dụng các chất chống oxy hóa cho việc chữa lành vết thương đang ở giai đoạn đầu, và các nghiên cứu trong tương lai sẽ làm sáng tỏ vai trò của các chất chống oxy hóa trong việc chữa lành vết thương.

Thiết kế các hạt nano tải Finasteride để điều trị tiềm năng bệnh hói đầu Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 30 Số 4 - Trang 197-204 - 2017
Luís Roque, Inês S. Dias, Nuno Cruz, Ana Rebelo, Amílcar Roberto, Patrícia Rijo, Catarina Pinto Reis

<b><i>Bối cảnh/Mục tiêu:</i></b> Bệnh hói đầu androgenetic là một rối loạn da liễu rất phổ biến ảnh hưởng đến cả nam và nữ. Finasteride đường uống (FNS), một hợp chất tổng hợp 4-aza-3-oxosteroid với độ hòa tan trong nước kém, ngăn chặn sự chuyển đổi testosterone thành dihydrotestosterone (DHT) ở ngoại vi, dẫn đến giảm đáng kể nồng độ DHT, đạt được kết quả khả quan trong điều trị hói đầu. Tuy nhiên, việc uống thuốc này thường gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng. Xét thấy hiện tại chưa có phương pháp điều trị nào được chứng minh khoa học, các hệ thống vận chuyển thuốc mới có khả năng cải thiện liệu pháp hói đầu là vô cùng cần thiết. <b><i>Phương pháp:</i></b> Trong nghiên cứu này, các hạt nano polymer đã được đề xuất như một chất mang mới cho việc cung cấp FNS tại chỗ trong các nang tóc. <b><i>Kết quả và Kết luận:</i></b> Các hạt nano polymer, được chuẩn bị bằng phương pháp nhũ hóa/khuyếch tán dung môi đã được cải tiến, cho thấy kích thước hạt trung bình khoảng 300 nm, có thể đủ để tiếp cận tầng nông và các nang tóc, cùng với các giá trị tiềm năng zeta âm. Kết quả đo từ kính hiển vi điện tử quét cho thấy tất cả các hạt nano polymer đều có hình dạng hình cầu và bề mặt nhẵn mịn bất kể thành phần. Đạt hiệu quả bao bọc cao cho FNS (79.49 ± 0.47%). Các thử nghiệm giải phóng in vitro trong điều kiện sinh lý cho thấy các hạt nano cung cấp giải phóng kéo dài FNS trong 3 giờ. Các thử nghiệm trên da thông qua một nghiên cứu thẩm thấu in vitro cho thấy các hạt nano có mức độ thẩm thấu FNS thấp, cải thiện thời gian tồn tại trên da. Tất cả các tá dược được sử dụng trong thành phần hạt nano và trong 3 dung môi khác nhau đều an toàn. Những kết quả này gợi ý rằng công thức mới được đề xuất có một số đặc điểm tốt, cho thấy tính thích hợp của nó cho việc cung cấp FNS qua da trong điều trị hói đầu.

Phân Tích Lipid Biểu Bì Của Da Người Khỏe Mạnh: Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Thiết Kế Một Quần Thể Đối Chứng Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 17 Số 1 - Trang 23-30 - 2004
Kristien De Paépe, Arij Weerheim, Evi Houben, Diane Roseeuw, Cornelis P. Tensen, Vera Rogiers

Sự biến thiên giữa các nghiên cứu về lipid của biểu bì và lớp sừng của da người là rất cao do nguồn gốc khác nhau của mẫu da và sự đa dạng của các phương pháp chiết xuất được sử dụng. Trong công trình hiện tại, một kỹ thuật sắc ký lớp mỏng hiệu suất cao đã được sử dụng để nghiên cứu các yếu tố tuổi tác, giới tính và vị trí giải phẫu đối với ảnh hưởng của chúng đến hồ sơ lipid thu được từ các mẫu sinh thiết da biểu bì khỏe mạnh. Kết quả cho thấy sự khác biệt liên quan đến giới tính được thấy ở mức độ tổng nồng độ ceramide. Việc giảm nồng độ lipid quan sát được, do quá trình lão hóa, phụ thuộc vào vị trí giải phẫu. Do đó, các biến số này cần được kiểm soát theo cách tái sản xuất và tiêu chuẩn hóa để có thể nghiên cứu mối quan hệ trực tiếp giữa tình trạng da và thành phần lipid hàng rào. Chỉ khi mối quan hệ này được thiết lập, các kết quả điều trị tại chỗ mới có thể được đánh giá một cách khoa học.

Các ligand tổng hợp chọn lọc cho thụ thể axit retinoic hạt nhân của người Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 5 Số 1 - Trang 57-65 - 1992
Bernard Martin, Jean‐Michel Bernardon, Marie-Thérêse Cavey, Bruno Bernard, Isabelle Carlavan, Bruno Charpentier, W.R. Pilgrim, Braham Shroot, Uwe Reichert

Từ một loạt các dẫn xuất naphthalene và axit benzoic, chúng tôi đã xác định được các đồng phân tổng hợp của axit retinoic cho thấy tính chọn lọc cao đối với các thụ thể axit retinoic hạt nhân RARα (Am 580), RARβ (CD 2019) và RARγ (CD 437), cũng như các ligand có ái lực cao với tất cả các kiểu RAR (CD 367). Các hợp chất này đã được đánh giá trong hai hệ thống sàng lọc bổ sung: (1) sự gắn kết với các protein hạt nhân được chiết xuất từ tế bào <i>COS-7</i> sau khi chuyển gen bằng các vector biểu hiện thích hợp, và (2) sự kích thích của hoạt hóa plasminogen trong dòng tế bào teratocarcinoma phôi chuột F9. Tất cả các hợp chất đều có hành vi giống như các agonist axit retinoic trong thử nghiệm F9.

Mật Ong Của Ong Không Đốt, Vị Thuốc Chữa Làm Tự Nhiên: Một Đánh Giá Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 30 Số 2 - Trang 66-75 - 2017
Mohd Azri Abd Jalil, Abdul Razak Kasmuri, Hazrina Ab. Hadi

<b><i>Đề Cương:</i></b> Ong không đốt là một loại ong tự nhiên tồn tại ở hầu hết các châu lục. Mật ong do loài ong này sản xuất ra đã được sử dụng rộng rãi qua các thời kỳ và không gian. Đặc điểm nổi bật của mật ong này là nó được lưu trữ tự nhiên trong tổ (sáp), do đó góp phần vào những đặc tính có lợi, đặc biệt trong quá trình chữa lành vết thương. <b><i>Phương Pháp:</i></b> Trong bài viết này, một số nghiên cứu về mật ong của ong không đốt đã chỉ ra nhiều đặc điểm trị liệu của loại mật ong này về các thuộc tính chống oxy hóa, kháng khuẩn, kháng viêm và dưỡng ẩm. Tất cả những đặc tính trị liệu này đều có liên quan đến khả năng chữa lành vết thương. <b><i>Kết Quả:</i></b> Tính chất chống oxy hóa của mật ong không đốt có thể phá vỡ chuỗi các gốc tự do gây ảnh hưởng có hại đến vùng vết thương. Hơn nữa, các đặc tính kháng khuẩn của mật ong không đốt có thể vượt qua ô nhiễm vi khuẩn và do đó cải thiện tỷ lệ lành vết thương. Thêm vào đó, đặc tính kháng viêm trong mật ong này có thể bảo vệ mô khỏi các môi trường gây viêm độc hại. Các đặc tính dưỡng ẩm của mật ong có thể cải thiện quá trình chữa lành vết thương bằng cách thúc đẩy sự hình thành mạch máu và lưu thông oxy. <b><i>Kết Luận:</i></b> Việc áp dụng mật ong lên vết thương đã được sử dụng rộng rãi từ thời cổ đại. Do đó, việc hiểu cơ chế dược lý của mật ong đối với sinh lý của làn da bị thương là rất quan trọng để tối ưu hóa tỷ lệ chữa lành trong tương lai.

#mật ong #ong không đốt #chữa lành vết thương #đặc tính trị liệu #kháng viêm #kháng khuẩn #chống oxy hóa #dưỡng ẩm
Maturation of Stratum Corneum Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 17 Số 2 - Trang 57-66 - 2004
Y.B. Chiou, Ulrike Blume‐Peytavi

Tầm quan trọng của lớp biểu bì và chức năng hàng rào của nó đối với trẻ sơ sinh, đặc biệt là đối với trẻ mới sinh, là điều rõ ràng trong lâm sàng. Các nghiên cứu về sự trưởng thành của lớp biểu bì ở trẻ sơ sinh, tức là khi chức năng hàng rào hoàn chỉnh đạt được, đã cho ra những kết quả khác nhau. Dựa trên các nghiên cứu mất nước qua da và hấp thu xuyên da, trẻ sơ sinh đủ tháng dường như sở hữu lớp biểu bì với các đặc tính hàng rào tương tự như người lớn. Bên cạnh đó, cuộc sống sau sinh được cho là thúc đẩy sự trưởng thành của lớp biểu bì, đến nỗi ngay cả trẻ sơ sinh sinh non cũng có chức năng hàng rào tương tự như trẻ sơ sinh đủ tháng ở độ tuổi thai 2-3 tuần. Tuy nhiên, một cái nhìn vào các thông số khác, chẳng hạn như độ dày da, độ pH của da và độ ẩm của lớp biểu bì, cho thấy rằng làn da của trẻ sơ sinh luôn điều chỉnh theo môi trường ngoài tử cung trái ngược với trạng thái ổn định của làn da người lớn. Điều này gợi ý rằng việc ổn định hàng rào có thể phụ thuộc vào việc đạt được một sự cân bằng giữa các thông số khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ ràng, thông số nào, sự cân bằng nào và thời điểm nào. Bài báo này cung cấp một cái nhìn tổng quan cập nhật về hàng rào da của trẻ sơ sinh dựa trên việc tổng hợp tài liệu hiện có.

#lớp biểu bì #trẻ sơ sinh #chức năng hàng rào #trưởng thành da #nghiên cứu lâm sàng
Tác Động Kháng và Kích Thích Tế Bào Chết Theo Chương Trình Của Nitric Oxide Trong Các Tế Bào Biểu Bì Bị Chiếu Xạ: Vai Trò Của Superoxide Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 15 Số 5 - Trang 348-352 - 2002
Richard Weller, Timothy R. Billiar, Yoram Vodovotz

Phóng xạ cực tím (UV) kích thích quá trình chết tế bào theo chương trình (apoptosis) trong các tế bào biểu bì bằng cả hai con đường phụ thuộc vào p53 và thụ thể chết tế bào. Nó cũng tạo ra các gốc tự do trong các tế bào biểu bì, bao gồm việc tổng hợp nitric oxide (NO) bởi các nitroxide synthase constitutive và inducible (NOS). NO vừa có tác dụng thúc đẩy vừa có tác dụng ức chế quá trình apoptosis. Chúng tôi muốn xác định tác dụng nào là tác động chính trong các tế bào biểu bì. Các tế bào biểu bì nhân kháng thể người CCD1106 được chiếu xạ UVB với sự có mặt và không có mặt của một số đối kháng thể NOS. Apoptosis được đo lường bằng phương pháp phân tích tế bào dòng với sự kết hợp của annexin V. Việc đối kháng với NOS đã thay đổi một cách nhất quán quá trình apoptosis do UVB gây ra được đo 18 giờ sau khi chiếu xạ. Trong 9 trên 13 thí nghiệm, việc đối kháng với NOS làm tăng apoptosis. Tuy nhiên, trong 4 trên 13 thí nghiệm, việc đối kháng với NOS làm giảm apoptosis. Chúng tôi giả thuyết rằng các tác động khác nhau của NO có thể do sự cân bằng quan trọng giữa sản xuất NO và superoxide do UVB gây ra. Chúng tôi dự đoán rằng NO sẽ có tác dụng ức chế apoptosis trong điều kiện nồng độ thấp O2, nhưng sẽ có tác dụng thúc đẩy khi NO kết hợp với O2 để tạo thành peroxynitrite. Mặc dù Superoxide dismutase đã làm giảm apoptosis sau khi chiếu xạ UVB, nhưng việc bổ sung peroxynitrite không ảnh hưởng đến apoptosis. Chúng tôi kết luận rằng NO được phóng thích bởi chiếu xạ UV có tác dụng ức chế apoptosis; tuy nhiên, nồng độ của O2 có thể là yếu tố quyết định hành động của NO.

#Nitric oxide #Apoptosis #Terrestrial ultraviolet radiation #Superoxide #Keratinocytes
Đánh giá về hiệu quả, độ an toàn và ứng dụng lâm sàng của Polihexanide, một chất khử trùng vết thương hiện đại Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 23 Số Suppl. 1 - Trang 17-27 - 2010
N.-O. Hübner, Axel Krämer

Các vết thương nhiễm trùng vẫn luôn là một trong những thách thức lớn trong y học. Trong thập kỷ qua, ngày càng rõ ràng rằng hóa trị liệu kháng khuẩn bị hạn chế bởi sự phát triển của kháng thuốc kháng sinh. May mắn thay, những chất khử trùng mới, hiệu quả cao với phổ kháng khuẩn rộng đã được phát hiện, do đó, điều trị tại chỗ dự kiến sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong liệu pháp điều trị vết thương. Bài báo này xem xét tác nhân khử trùng polihexanide (polyhexamethylene biguanide, PHMB), một trong những chất hứa hẹn nhất hiện có hôm nay, từ góc độ lâm sàng, tập trung vào hiệu quả, độ an toàn và ứng dụng lâm sàng.

#Polihexanide #chất khử trùng #vết thương nhiễm trùng #hóa trị liệu kháng khuẩn #kháng thuốc
Đánh giá hiệu quả và khả năng dung nạp của dung dịch chứa Propyl Betaine và Polihexanide cho việc rửa vết thương Dịch bởi AI
Skin Pharmacology and Physiology - Tập 23 Số Suppl. 1 - Trang 41-44 - 2010
Marco Romanelli, Valentina Dini, Sabrina Barbanera, Mariastefania Bertone

Rửa vết thương là một bước cơ bản trong quản lý vết thương mãn tính. Nhiều cuộc điều tra trong những năm gần đây đã dẫn đến việc cải thiện quy trình rửa vết thương nhằm kiểm soát tốt hơn gánh nặng vi khuẩn trong quá trình chuẩn bị bề mặt vết thương và tránh tổn thương tế bào và mô thêm. Mục tiêu của thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát hiện tại là điều tra tác động của dung dịch rửa vết thương chứa polihexanide và betaine đối với các vết loét tĩnh mạch chân thông qua đánh giá lâm sàng và công cụ. Một thiết bị di động đã được sử dụng trên bề mặt vết thương để đánh giá pH bề mặt, được chứng minh là một trong những tham số sinh lý học không xâm lấn hữu ích nhất nhằm tương quan mức độ gánh nặng vi khuẩn ở các loại vết thương mãn tính khác nhau. pH cơ bản trên bề mặt vết thương (phạm vi trung vị) ban đầu là 8,9, và sau 4 tuần điều trị rửa và băng vết thương ẩm, nó đã giảm và ổn định ở mức 7,0 trong nhóm điều trị bằng dung dịch hoạt động. Giá trị pH thấp hơn một cách có ý nghĩa (p < 0,05) trong nhóm này so với nhóm đối chứng vào cuối nghiên cứu. Việc điều trị bằng dung dịch chứa polihexanide và betaine được bệnh nhân dung nạp tốt và được phát hiện là hữu ích trong việc hấp thụ mùi hôi của vết thương.

Tổng số: 14   
  • 1
  • 2