Perspectives on Psychological Science

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Expressive Writing in Psychological Science
Perspectives on Psychological Science - Tập 13 Số 2 - Trang 226-229 - 2018
James W. Pennebaker

The 1997 Psychological Science paper “Writing About Emotional Experiences as a Therapeutic Process” summarized the results of several expressive writing studies. Since the publication of the first expressive writing study in 1986, a number of discoveries had emerged that had both theoretical and clinical implications. The scientific and personal backstories of the research are discussed. Finally, several possible reasons are advanced to explain why this particular paper has been cited as much as it has.

How Do Young Children Explain Differences in the Classroom? Implications for Achievement, Motivation, and Educational Equity
Perspectives on Psychological Science - Tập 16 Số 3 - Trang 533-552 - 2021
Sébastien Goudeau, Andrei Cimpian

Classroom settings bring to light many differences between children—differences that children notice and attempt to explain. Here, we advance theory on the psychological processes underlying how children explain the differences they observe in the classroom. Integrating evidence from cognitive, social, cultural, developmental, and educational psychology, we propose that young children tend to explain differences among their peers by appealing to the inherent characteristics of those individuals and, conversely, tend to overlook extrinsic reasons for such differences—that is, reasons having to do with external circumstances and structural factors. We then outline how this inherence bias in children’s explanations affects their motivation and performance in school, exacerbating inequalities in achievement and making these inequalities seem legitimate. We conclude by suggesting several means of counteracting the inherence bias in children’s explanations and its effects on their educational outcomes. Throughout, we highlight new directions for research on the relation between children’s explanations, their motivation and achievement, and the inequalities observed in elementary school and beyond.

Phát triển, Tự do, và Sự Tăng trưởng Hạnh phúc: Một Góc Nhìn Toàn Cầu (1981–2007) Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 3 Số 4 - Trang 264-285 - 2008
Ronald Inglehart, Roberto Foa, Christopher Peterson, Christian Welzel

Cho đến gần đây, nhiều người tin rằng hạnh phúc dao động quanh các điểm thiết lập, do đó không có cá nhân hay xã hội nào có thể tăng trưởng hạnh phúc một cách bền vững. Mặc dù nghiên cứu gần đây cho thấy một số cá nhân có thể vươn lên hoặc rơi xuống khỏi các điểm thiết lập trong thời gian dài, điều này không bác bỏ ý tưởng rằng mức độ hạnh phúc của toàn bộ xã hội vẫn ổn định. Tuy nhiên, bài viết của chúng tôi thách thức ý tưởng này: Dữ liệu từ các cuộc khảo sát quốc gia đại diện được thực hiện từ năm 1981 đến 2007 cho thấy rằng hạnh phúc đã tăng lên ở 45 trong số 52 quốc gia có dữ liệu chuỗi thời gian đáng kể. Phân tích hồi quy cho thấy rằng mức độ mà một xã hội cho phép sự lựa chọn tự do có ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc. Kể từ năm 1981, phát triển kinh tế, quá trình dân chủ hóa, và việc gia tăng mức độ khoan dung xã hội đã nâng cao nhận thức của con người về sự tự do lựa chọn, từ đó dẫn đến mức độ hạnh phúc cao hơn trên toàn cầu, như mô hình phát triển con người đã gợi ý.

Điều Hướng Vào Tương Lai Hay Bị Định Hướng Bởi Quá Khứ Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 8 Số 2 - Trang 119-141 - 2013
Martin E. P. Seligman, Peter Railton, Roy F. Baumeister, Chandra Sripada

Việc dự đoán (Gilbert & Wilson, 2007), tức là việc hình dung về những tương lai có thể xảy ra, là một đặc điểm phổ quát của tâm trí con người. Ngược lại, nhiều lý thuyết và thực hành tâm lý học đã hiểu hành động của con người như bị quy định bởi quá khứ và xem bất kỳ teleology nào (sự lựa chọn hành động dựa trên mục tiêu) như một sự vi phạm quy luật tự nhiên vì tương lai không thể tác động lên hiện tại. Việc dự đoán không liên quan gì đến nguyên nhân từ phía trước; đúng hơn, nó được hướng dẫn không phải bởi chính tương lai mà bởi những hình ảnh đánh giá hiện tại về các trạng thái tương lai có thể xảy ra. Những hình ảnh này có thể được hiểu tối thiểu như là các điều kiện “Nếu X, thì Y”, và quá trình dự đoán có thể được hiểu như là việc tạo ra và đánh giá những điều kiện này. Chúng tôi xem xét lịch sử của những nỗ lực loại bỏ teleology ra khỏi khoa học, culminating in the failures of behaviorism and psychoanalysis to account adequately for action without teleology. Bằng chứng phong phú cho thấy rằng việc dự đoán là một đặc điểm tổ chức trung tâm của cảm nhận, nhận thức, cảm xúc, trí nhớ, động lực và hành động. Các tác giả suy đoán rằng việc dự đoán đã làm sáng tỏ lý do tại sao chủ quan là một phần của ý thức, cái gì là “tự do” và “mong muốn” trong “ý chí tự do”, cũng như các rối loạn tâm thần và cách điều trị chúng. Nhìn nhận hành vi như bị thúc đẩy bởi quá khứ đã là một khuôn khổ mạnh mẽ đã giúp tạo ra tâm lý học khoa học, nhưng bằng chứng tích lũy từ nhiều lĩnh vực nghiên cứu cho thấy sự chuyển dịch trong khuôn khổ, trong đó việc điều hướng vào tương lai được xem như một nguyên tắc tổ chức cốt lõi của hành vi động vật và con người.

Suy Nghĩ Về Tương Lai Từng Tập Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 5 Số 2 - Trang 142-162 - 2010
Karl K. Szpunar

Khả năng mô phỏng các tình huống giả định một cách tâm lý là một lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển nhanh chóng trong cả tâm lý học và thần kinh học. Suy nghĩ về tương lai từng tập, hay khả năng mô phỏng các tập cá nhân cụ thể có thể xảy ra trong tương lai, đại diện cho một khía cạnh của năng lực tổng quát này đang thu hút một lượng lớn sự quan tâm. Mục đích của bài báo này là làm rõ kiến thức hiện tại và xác định một số vấn đề chưa được giải quyết liên quan đến năng lực tâm lý cụ thể này. Đặc biệt, bài báo này tập trung vào các phát hiện nghiên cứu gần đây từ hình ảnh não, tâm lý học thần kinh và tâm lý học lâm sàng cho thấy một mối liên hệ chặt chẽ giữa suy nghĩ về tương lai từng tập và khả năng nhớ lại các tập cá nhân từ quá khứ của một người. Mặt khác, các cân nhắc về vai trò của các biểu diễn trừu tượng (ngữ nghĩa) trong suy nghĩ về tương lai từng tập đã thiếu vắng đáng kể trong tài liệu. Phần cuối cùng của bài báo này đề xuất rằng cả trí nhớ từng tập và trí nhớ ngữ nghĩa đều đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các suy nghĩ về tương lai từng tập và rằng sự tương tác của chúng trong quá trình này có thể bị xác định bởi khả năng tiếp cận tương đối của thông tin trong trí nhớ.

Cô đơn Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 10 Số 2 - Trang 238-249 - 2015
Stephanie Cacioppo, Angela J. Grippo, Sarah E. London, Luc Goossens, John T. Cacioppo

Vào năm 1978, khi báo cáo của Ban công tác gửi đến Ủy ban Tổng thống Hoa Kỳ về Sức khỏe Tâm thần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện chăm sóc sức khỏe và giảm bớt nỗi đau của những người đang phải chịu đựng các hội chứng rối loạn cảm xúc, bao gồm cả cô đơn, ít ai ngờ rằng vấn đề này vẫn còn cần được giải quyết sau 40 năm. Vào năm 2011, một phân tích tổng hợp về hiệu quả của các phương pháp điều trị nhằm giảm cô đơn đã chỉ ra nhu cầu về các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được kiểm soát tốt, tập trung vào việc phục hồi nhận thức xã hội không thích hợp. Chúng tôi xem xét các đánh giá về cảm giác cô đơn và xây dựng trên phân tích tổng hợp này để thảo luận về hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau đối với tình trạng cô đơn. Với những tiến bộ đã đạt được trong 5 năm qua trong việc xác định các cơ chế tâm sinh lý và dược lý liên quan đến cô đơn và nhận thức xã hội không thích hợp, có ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy hiệu quả tiềm tàng của các can thiệp tích hợp kết hợp (hành vi) trị liệu nhận thức với các phương pháp điều trị dược lý bổ trợ ngắn hạn.

Làm sáng tỏ các cơ chế đứng sau sự chênh lệch về sức khỏe thông qua các phương pháp tham gia cộng đồng Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 8 Số 6 - Trang 613-633 - 2013
Christine Dunkel Schetter, Peter Schäfer, Robin Gaines Lanzi, Elizabeth Clark‐Kauffman, Tonse N.K. Raju, Marianne M. Hillemeier

Sự chênh lệch về sức khỏe là những khoảng cách lớn và kéo dài trong tỷ lệ bệnh tật và tử vong giữa các nhóm phân loại theo chủng tộc/ethnic và tình trạng kinh tế xã hội trong cộng đồng. Căng thẳng được giả định là một con đường chính để giải thích những sự chênh lệch này. Viện Eunice Kennedy Shriver Quốc gia về Sức khỏe Trẻ em và Phát triển Con người đã hình thành một hợp tác giữa cộng đồng/nghiên cứu—Mạng lưới Sức khỏe Trẻ em Cộng đồng—để điều tra những sự chênh lệch trong sức khỏe mẹ và trẻ ở năm cộng đồng có nguy cơ cao. Sử dụng các phương pháp tham gia cộng đồng, chúng tôi đã tuyển chọn một nhóm lớn các bà mẹ và cha mẹ người Mỹ gốc Phi/Đen, Latino/Latinh, và không gốc Latinh/Trắng có con sơ sinh vào thời điểm sinh và theo dõi họ trong hơn 2 năm. Đại đa số có thu nhập hộ gia đình gần hoặc thấp hơn mức nghèo của liên bang. Các cuộc phỏng vấn tại nhà đã cung cấp thông tin chi tiết về nhiều loại căng thẳng khác nhau như các sự kiện lớn trong cuộc sống và nhiều hình thức căng thẳng mãn tính bao gồm cả phân biệt chủng tộc. Một số hình thức căng thẳng thay đổi rõ rệt theo nhóm chủng tộc/ethnic và thu nhập, với việc giảm căng thẳng khi thu nhập tăng ở người da trắng nhưng không phải ở người Mỹ gốc Phi; các hình thức căng thẳng khác lại thay đổi theo chủng tộc/ethnic hoặc chỉ dựa trên tình trạng nghèo. Chúng tôi kết luận rằng cần phải có sự tinh vi hơn trong việc nghiên cứu nhiều hình thức căng thẳng và hợp tác cộng đồng để khám phá các cơ chế đứng sau sự chênh lệch về sức khỏe trong các gia đình nghèo và thiểu số chủng tộc, và để thực hiện các can thiệp sức khỏe cộng đồng.

#sự chênh lệch về sức khỏe #căng thẳng #chủng tộc #nghèo đói #can thiệp sức khỏe cộng đồng
Tăng cường hiệu quả của các nhóm làm việc và đội ngũ: Một sự phản ánh Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 13 Số 2 - Trang 205-212 - 2018
Steve W. J. Kozlowski

Làm việc nhóm đã là trung tâm của những thành tựu của con người trong suốt nhiều thiên niên kỷ, và đây là một mối quan tâm trong nghiên cứu tâm lý xã hội về hành vi nhóm nhỏ trong gần nửa thế kỷ. Tuy nhiên, khi các tổ chức trên toàn thế giới tổ chức lại công việc xung quanh các nhóm trong hai thập kỷ qua, bản chất của việc làm việc nhóm và các yếu tố ảnh hưởng đến nó đã trở thành trọng tâm nghiên cứu trong tâm lý học tổ chức và quản lý. Trong bài báo này, tôi phản ánh về động lực, chiến lược, các đặc điểm chính và những đóng góp khoa học của "Tăng cường hiệu quả của các nhóm làm việc và đội ngũ", của Kozlowski và Ilgen, một bài tổng quan được xuất bản trong Tâm lý học Khoa học vì Lợi ích Công cộng vào năm 2006.

Thiền chánh niệm tác động như thế nào? Đề xuất cơ chế hoạt động từ góc độ khái niệm và thần kinh học Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 6 Số 6 - Trang 537-559 - 2011
Britta K. Hölzel, Sara W. Lazar, Tim Gard, Zev Schuman‐Olivier, David R. Vago, Ulrich Ott

Việc rèn luyện chánh niệm, tức là sự nhận thức không phán xét về những trải nghiệm trong giây phút hiện tại, mang lại những tác động tích cực đến sức khỏe và cải thiện các triệu chứng liên quan đến tâm thần và căng thẳng. Do đó, thiền chánh niệm ngày càng được đưa vào các can thiệp tâm lý trị liệu. Mặc dù số lượng công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này đã tăng vọt trong hai thập kỷ qua, nhưng vẫn còn thiếu các bài tổng quan lý thuyết kết hợp tài liệu hiện có thành một khung lý thuyết toàn diện. Trong bài viết này, chúng tôi khám phá một số thành phần thông qua đó thiền chánh niệm phát huy tác động: (a) điều chỉnh sự chú ý, (b) nhận thức về cơ thể, (c) điều chỉnh cảm xúc (bao gồm đánh giá lại và tiếp xúc, tiêu diệt, và tái củng cố), và (d) thay đổi quan điểm về bản thân. Nghiên cứu thực nghiệm gần đây, bao gồm báo cáo tự những người thực hành và dữ liệu thí nghiệm, cung cấp chứng cứ hỗ trợ cho những cơ chế này. Các nghiên cứu hình ảnh chức năng và cấu trúc thần kinh bắt đầu khám phá những quá trình thần kinh học nền tảng cho các thành phần này. Bằng chứng cho thấy việc thực hành chánh niệm liên quan đến những thay đổi thần kinh học ở vỏ não cingulate trước, vùng đảo, khớp thái dương-parietal, mạng lưới trước-limbic và các cấu trúc của mạng lưới chế độ mặc định. Các tác giả gợi ý rằng các cơ chế được mô tả ở đây hoạt động phối hợp, thiết lập một quá trình tự điều chỉnh được nâng cao. Sự phân biệt giữa các thành phần này dường như hữu ích để hướng dẫn các nghiên cứu cơ bản trong tương lai và để nhắm mục tiêu cụ thể đến các lĩnh vực phát triển trong điều trị rối loạn tâm lý.

Làm Thế Nào Để Cải Thiện Quyết Định? Dịch bởi AI
Perspectives on Psychological Science - Tập 4 Số 4 - Trang 379-383 - 2009
Katherine L. Milkman, Dolly Chugh, Max H. Bazerman

Thời điểm tối ưu để đặt ra câu hỏi về cách cải thiện quyết định của con người đã đến. Nhờ 50 năm nghiên cứu của các học giả trong lĩnh vực đánh giá và ra quyết định, các nhà tâm lý học đã phát triển một bức tranh chi tiết về những cách mà phán đoán của con người bị giới hạn. Bài viết này cho rằng đã đến lúc tập trung vào việc tìm kiếm các chiến lược nhằm cải thiện phán đoán có giới hạn, vì những sai lầm trong quyết định thì tốn kém và ngày càng trở nên tốn kém hơn, những người ra quyết định thì sẵn sàng tiếp thu, và những hiểu biết học thuật chắc chắn sẽ theo sau từ nghiên cứu về cải tiến. Ngoài việc kêu gọi nghiên cứu về các chiến lược cải tiến, bài viết này còn tổ chức tài liệu hiện có liên quan đến các chiến lược cải tiến và làm nổi bật những hướng đi đầy hứa hẹn cho nghiên cứu trong tương lai.

Tổng số: 67   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7