Organic Agriculture

SCOPUS (2011-2023)ESCI-ISI

  1879-4246

  1879-4238

 

Cơ quản chủ quản:  Springer Science + Business Media

Lĩnh vực:
Agricultural and Biological Sciences (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Consumption behaviour regarding organic food from a marketing perspective—a literature review
Tập 5 Số 4 - Trang 277-313 - 2015
Sarah Hemmerling, Ulrich Hamm, Achim Spiller
Organic Agriculture 3.0 is innovation with research
Tập 7 Số 3 - Trang 169-197 - 2017
Gerold Rahmann, Mohammad Reza Ardakani, Paolo Bàrberi, Herwart Boehm, Stefano Canali, Mahesh Chander, Wahyudi David, Lucas Dengel, J. W. Erisman, Ana C. Galvis-Martinez, Ulrich Hamm, Johannes Kahl, Ulrich Köpke, Stefan Kühne, S. B. Lee, Anne-Kristin Løes, Jan Hendrik Moos, Daniel Neuhof, Jaakko Nuutila, Victor Olowe, Rainer Oppermann, Ewa Rembiałkowska, Jim Riddle, Ilse A. Rasmussen, Jessica Shade, Sang Mok Sohn, Mekuria Tadesse, Sonam Tashi, Alan Thatcher, Nazim Uddin, Peter von Fragstein und Niemsdorff, Atle Wibe, Maria Wivstad, Wenliang Wu, Raffaele Zanoli
Environmental assessment of organic juice imported to Denmark: a case study on oranges (Citrus sinensis) from Brazil
- 2011
Marie Trydeman Knudsen, G. F. de Almeida, Vibeke Langer, Lucimar Santiago de Abreu, Niels Halberg
Quản lý chất dinh dưỡng trong hệ thống nông nghiệp hữu cơ: phụ thuộc vào sản xuất chăn nuôi để quản lý chất dinh dưỡng cho đất canh tác Dịch bởi AI
Tập 3 - Trang 183-199 - 2014
Damien Foissy, Jean-François Vian, Christophe David
Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất dựa vào quản lý hệ sinh thái và các quá trình sinh thái thay vì phụ thuộc vào dòng chảy bên ngoài của các yếu tố đầu vào nông nghiệp. Sự phát triển của ngành hữu cơ đã dẫn đến sự phân tách không gian giữa sản xuất chăn nuôi và cây trồng. Điều này đã làm tăng dòng chảy chất dinh dưỡng diễn ra giữa các trang trại so với những gì xảy ra trong các trang trại riêng lẻ. Các hệ thống hữu cơ đã thay thế các yếu tố đầu vào tổng hợp bằng các phương pháp quản lý cụ thể theo địa điểm để cân bằng chất dinh dưỡng đầu vào và đầu ra nhằm đảm bảo năng suất ngắn hạn và tính bền vững dài hạn. Bài báo này đề cập đến việc quản lý chất dinh dưỡng của các hệ thống nông nghiệp hỗn hợp và chuyên môn hóa, với nhấn mạnh đặc biệt vào sự phụ thuộc vào sản xuất chăn nuôi để quản lý chất dinh dưỡng cho đất canh tác. Chúng tôi đã đánh giá ngân sách chất dinh dưỡng của nitrogen (N), phosphorus (P) và potassium (K) của 28 trang trại hữu cơ được chọn theo mật độ chăn nuôi từ ba huyện của Pháp. Các trang trại được phân loại là không có gia súc, hỗn hợp và hệ thống chăn nuôi gia súc. Một ngân sách dinh dưỡng trên bề mặt đất được tính cho từng trang trại dựa trên đầu vào (cố định N, phân thải và phân chuồng) và đầu ra (lấy cỏ, thu hoạch) trên các loại cây hàng năm và đồng cỏ. Các đầu vào do sự lắng đọng N từ khí quyển và hạt giống và các tổn thất do rửa trôi và bay hơi không được xem xét trong nghiên cứu này. Ngân sách dinh dưỡng của 28 trang trại cho thấy sự thiếu hụt N, P và K, mặc dù cũng có sự chênh lệch giữa các hệ thống canh tác và vị trí địa lý của chúng. Các trang trại không có gia súc biểu hiện sự thiếu hụt N cao, trong khi các hệ thống canh tác hỗn hợp và chăn nuôi gia súc thể hiện sự thiếu hụt thấp hơn (gần như cân bằng) hoặc thậm chí là thặng dư ở một huyện có mật độ trang trại chăn nuôi cao. Sự khác biệt giữa các hệ thống canh tác về ngân sách P và K theo cùng một xu hướng, nhưng các đặc điểm khu vực tỏ ra quan trọng ở các hệ thống không có gia súc và chăn nuôi gia súc (liên quan đến quy mô trang trại và tỷ lệ chăn nuôi). Không có trang trại nào mua phân hữu cơ bên ngoài khi có sự giao lưu phân và rơm rạ được ghi nhận ở quy mô vùng. Khi có chăn nuôi trên trang trại, các nguồn tài nguyên chất dinh dưỡng chủ yếu đến từ việc tái chế các nguồn tài nguyên nội bộ (phân, phân thải và cố định N), trong khi các hệ thống không có gia súc đã mua phân hữu cơ từ các trang trại lân cận (14 đến 58% tổng đầu vào N, 10 đến 100% tổng đầu vào P và K). Tính bền vững của các hệ thống nông nghiệp hữu cơ không có gia súc đang bị đặt ra câu hỏi, đặc biệt là những hệ thống nằm ở các vùng mà tài nguyên chất hữu cơ đang khan hiếm. Chỉ có những hệ thống canh tác sản xuất lượng phân lớn hoặc mua thức ăn cho gia súc mới cho thấy ngân sách dinh dưỡng cân bằng.
#nông nghiệp hữu cơ #quản lý chất dinh dưỡng #sản xuất chăn nuôi #đất canh tác #ngân sách dinh dưỡng
Organic rice: potential production strategies, challenges and prospects
Tập 8 Số 1 - Trang 39-56 - 2018
Kali Krishna Hazra, Dillip Kumar Swain, Abhishek Bohra, SS Singh, Narendra Kumar, Chaitanya Prasad Nath
Đến mức độ nào nông nghiệp hữu cơ thúc đẩy sự phong phú và sự phong phú của các loài trong khí hậu ôn đới? Một đánh giá Dịch bởi AI
- 2021
Karin Stein-Bachinger, Frank Gottwald, Almut Haub, Elisabeth Schmidt
Tóm tắt

Việc mất đa dạng sinh học trong các cảnh quan nông nghiệp đã diễn ra một cách nghiêm trọng trong vài thập kỷ qua với những xu hướng tiêu cực vẫn tiếp diễn. Nông nghiệp hữu cơ đã nhận được sự công nhận rộng rãi trong các lĩnh vực khoa học và chính trị vì những lợi ích môi trường của nó, mặc dù tỷ lệ diện tích đất được canh tác hữu cơ vẫn còn nhỏ và mức độ nông nghiệp hữu cơ góp phần thúc đẩy đa dạng sinh học được nhìn nhận một cách gây tranh cãi. Chúng tôi trình bày một đánh giá phê phán, định lượng 98 bài báo chủ yếu được đồng nghiệp đánh giá đã được chọn từ 801 nghiên cứu ở các khu vực có khí hậu ôn đới được công bố trong khoảng thời gian 1990–2017. Chúng tôi đã định lượng sự khác biệt về sự phong phú loài và độ phong phú của các nhóm thực vật và động vật được chọn. Tổng cộng, 474 so sánh cặp đôi so sánh hệ thống nông nghiệp hữu cơ và thông thường đã được xem xét. Tổng thể, nông nghiệp hữu cơ cho thấy sự phong phú loài hoặc độ phong phú cao hơn trong 58% các cặp. Không có sự khác biệt nào được tìm thấy cho 38%, 4% chỉ ra tác động tiêu cực từ nông nghiệp hữu cơ. Số lượng loài trung bình (trung vị) của thực vật trên đất trồng trọt cao hơn 95% dưới sự quản lý hữu cơ, cũng như cao hơn 61% đối với ngân hàng hạt và 21% cao hơn cho thảm thực vật biên ruộng. Đối với các loài chim đồng ruộng, sự phong phú loài cao hơn 35% và độ phong phú cao hơn 24% trong nông nghiệp hữu cơ; đối với côn trùng, các giá trị tương ứng là 22% và 36% và đối với nhện là 15% và 55%. Nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh rằng nông nghiệp hữu cơ có thể đóng một vai trò hiệu quả trong việc chống lại sự mất mát đa dạng sinh học. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào các tác động kết hợp của cấu trúc cảnh quan và nông nghiệp hữu cơ, tác động của nông nghiệp hữu cơ quy mô lớn, cũng như tương quan giữa đa dạng loài và các tham số sản xuất. Để đảm bảo tính đại diện của hệ thống, cần áp dụng các tiêu chí lựa chọn nghiêm ngặt hơn trong các phân tích tiếp theo.

ORGANIC 3.0—the vision of the global organic movement and the need for scientific support
Tập 7 Số 3 - Trang 199-207 - 2017
Markus Arbenz, David M. Gould, C. Stopes
Comparing technical efficiency of organic and conventional coffee farms in rural hill region of Nepal using data envelopment analysis (DEA) approach
- 2015
Krishna Poudel, Thomas G. Johnson, Naoyuki Yamamoto, Shriniwas Gautam, Bhawani Mishra
Assessing consumer preferences for organic vs eco-labelled olive oils
- 2019
Giacomo Giannoccaro, Domenico Carlucci, Ruggiero Sardaro, Luigi Roselli, Bernardo De Gennaro
Farmers’ reasons for deregistering from organic farming
- 2012
Matthias Koesling, Anne-Kristin Løes, Ola Flåten, Niels Heine Kristensen, Mette Weinreich Hansen