Nursing in Critical Care

SSCI-ISI SCIE-ISI SCOPUS (1996-2000,2002-2023)

  1478-5153

  1362-1017

  Anh Quốc

Cơ quản chủ quản:  WILEY , Wiley-Blackwell Publishing Ltd

Lĩnh vực:
Critical Care Nursing

Các bài báo tiêu biểu

Tuyên bố vị thế của Hiệp hội Y tá Chăm sóc Đặc biệt Vương quốc Anh về việc sử dụng biện pháp kiềm chế trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt cho người lớn Dịch bởi AI
Tập 9 Số 5 - Trang 199-212 - 2004
Kate Bray, Karen Hill, Wayne Robson, Gill Leaver, Nikki Walker, Mary O'Leary, Trish Delaney, Dominic Walsh, Melanie Gager, Catheryne Waterhouse
Tóm tắt

• Các y tá chăm sóc đặc biệt ở Vương quốc Anh ngày càng lo ngại về việc sử dụng, khả năng lạm dụng và những rủi ro liên quan đến việc kiềm chế vật lý bệnh nhân.

• Biện pháp kiềm chế trong chăm sóc đặc biệt không chỉ giới hạn ở việc kiềm chế vật lý mà còn có thể bao gồm các phương pháp hóa học và tâm lý.

• Có những lo ngại về các vấn đề pháp lý và đạo đức liên quan đến việc (lạm) sử dụng các kỹ thuật kiềm chế vật lý trong chăm sóc đặc biệt.

• Mục tiêu của bài báo này là trình bày tuyên bố vị thế của Hiệp hội Y tá Chăm sóc Đặc biệt Vương quốc Anh (BACCN) về việc sử dụng biện pháp kiềm chế trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt cho người lớn, và cung cấp bằng chứng hỗ trợ để trợ giúp các nhân viên lâm sàng trong việc quản lý quy trình này.

Mức độ tiếng ồn trong đơn vị chăm sóc đặc biệt tổng quát: một nghiên cứu mô tả Dịch bởi AI
Tập 12 Số 4 - Trang 188-197 - 2007
Martin Christensen
Tóm tắt

Mục tiêu của nghiên cứu quy mô nhỏ này là đo lường, phân tích và so sánh mức độ tiếng ồn âm học trong một đơn vị chăm sóc đặc biệt tổng quát (ICU) với 9 giường bệnh. Các phép đo được thực hiện bằng cách sử dụng thiết bị đo âm thanh Norsonic 116 ghi lại mức độ tiếng ồn theo thang đo trọng số 'A' được quốc tế công nhận. Dữ liệu về mức độ tiếng ồn đã được thu thập và ghi lại trong khoảng thời gian 5 phút trong 3 ngày liên tiếp. Kết quả phân tích mức độ tiếng ồn cho thấy mức độ tiếng ồn trung bình trong khu vực lâm sàng này là 56,42 dB(A), với các đỉnh tiếng ồn cấp tính đạt 80 dB(A). Mức độ tiếng ồn thấp nhất đạt được là 50 dB(A) trong các khoảng thời gian rời rạc trong suốt 24 giờ. Kiểm tra tham số bằng phương pháp phân tích phương sai cho thấy có mối quan hệ tích cực (p≤ 0,001) giữa các ca trực y tá và ngày trong tuần. Tuy nhiên, kiểm tra khoảng cách nhiều lần Scheffe cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa ca sáng và ca chiều cũng như ca đêm (p≤ 0,05). Không có sự khác biệt thống kê giữa ca chiều và ca đêm (p≥ 0,05). Mặc dù kết quả của nghiên cứu này có thể có vẻ hiển nhiên ở nhiều khía cạnh, nhưng điều mà nghiên cứu đã làm nổi bật là vấn đề tiếp xúc với tiếng ồn quá mức trong ICU vẫn tiếp tục tồn tại mà không có dấu hiệu giảm bớt. Nguy hiểm hơn là tác động kéo dài của việc tiếp xúc với tiếng ồn quá mức đối với cả bệnh nhân và nhân viên có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và sự an toàn của những cá nhân này.

Opioid and benzodiazepine withdrawal syndromes in the paediatric intensive care unit: a review of recent literature
Tập 14 Số 1 - Trang 26-37 - 2009
Giles Birchley
Abstract

Aims and objectives:  This paper aims to critically review and analyse available literature to inform and advance patient care.

Background:  Withdrawal syndromes related to the routine administration of sedation and analgesia in paediatric intensive care unit (PICU) have been recognized since the 1990s. Common symptoms include tremors, agitation, inconsolable crying and sleeplessness.

Search strategies:  A critical review was undertaken to assess developments in this area. Four databases were searched using Ovid Online. These were Ovid Medline, CINAHL, BNI and Embase. Key terms included were ‘Paediatric’, ‘Sedation’, ‘Withdrawal’ and ‘Intensive care’.

Inclusion and exclusion criteria:  Articles from 1980 onwards were reviewed for their relevance to paediatric iatrogenic withdrawal. Additionally, seminal work from the 1970s was included. Because of the scarcity of literature, relevant editorials and opinion pieces were included.

Results:  A total of 2 232 586 papers resulted from keyword searches. Use of Boolean operators to combine terms reduced the number of results to 62. Exclusion criteria reduced the number of suitable papers to 20. Tracking reference lists yielded a further 18 papers. In total, 38 papers were retrieved examining 1375 patients. Four papers surveyed drug usage on PICU, 14 listed withdrawal symptoms, 4 described the frequency of withdrawal in the PICU population, 9 described risk factors, 4 presented or validated clinical tools and 14 describe treatment strategies.

Conclusions:  Withdrawal syndromes may affect 20% of exposed children and are related to infusion duration and total dose. Fifty‐one symptoms are described in the literature. Future studies need accurate, validated clinical tools to be effective. Risk factors, signs and symptoms have been identified, and validation studies must now take place.

Relevance to clinical practice:  Withdrawal syndromes continue to be widespread and difficult to diagnose. Awareness of their causes and treatments should influence clinical decisions at the bedside.

Family witnessed resuscitation - experience and attitudes of German intensive care nurses
Tập 15 Số 5 - Trang 241-250
Stefan Köberich, Arnold Kaltwasser, Oliver Rothaug, John Albarran
Ràng buộc vật lý: trải nghiệm, thái độ và ý kiến của y tá khoa hồi sức người lớn Dịch bởi AI
Tập 21 Số 2 - Trang 78-87 - 2016
Samantha Freeman, Christine E. Hallett, Gretl A. McHugh
TÓM TẮTĐặt vấn đề

Các bệnh nhân trong khoa hồi sức tích cực cho người lớn có khả năng phát triển tình trạng mê sảng và kích động. Điều này có thể dẫn đến việc bệnh nhân thể hiện những hành vi không mong muốn như cố gắng tháo bỏ thiết bị y tế mà họ đang gắn liền. Một số khoa hồi sức tích cực cho người lớn tại Vương quốc Anh đang bắt đầu áp dụng ràng buộc vật lý như một phương pháp quản lý các hành vi không mong muốn.

Mục tiêu

Xác định kinh nghiệm, thái độ và ý kiến của các y tá khoa hồi sức người lớn liên quan đến việc áp dụng ràng buộc vật lý.

Thiết kế

Khảo sát bằng bảng câu hỏi.

Phương pháp

Bảng câu hỏi được gửi đến tất cả các y tá (n = 192) trong hai khoa hồi sức người lớn lớn được chọn có mục đích tại Vương quốc Anh.

Những kết quả

Dữ liệu được thu thập từ tháng 11 năm 2012 đến tháng 2 năm 2013. Bảng câu hỏi đã được 38·9% (n = 75) các y tá được liên hệ hoàn thành. Tất cả đều cho rằng ràng buộc vật lý có vị trí của nó, với phần lớn ý kiến cho rằng lý do áp dụng là để duy trì an toàn cho bệnh nhân. Một số người bày tỏ sự không thoải mái về việc sử dụng ràng buộc vật lý. Các y tá rất vui lòng thảo luận về việc sử dụng ràng buộc với gia đình. Có một nhu cầu cảm nhận về đào tạo và hỗ trợ cho nhân viên điều dưỡng cũng như cần các nhân viên y tế hỗ trợ trong quá trình ra quyết định.

Kết luận

Các y tá cần nhiều hỗ trợ và chứng cứ hơn để dựa vào quá trình ra quyết định của họ. Họ cần hướng dẫn từ các cơ quan chuyên môn cũng như sự hỗ trợ từ các đồng nghiệp y khoa. Những phát hiện này có tính tổng quát hạn chế khi chỉ có thể áp dụng cho các đơn vị đã được tiếp cận và tỷ lệ phản hồi thì kém.

Ý nghĩa đối với thực hành lâm sàng

Cần khám phá các phương pháp thay thế như quản lý cơn đau, thúc đẩy giấc ngủ và sự tham gia của người thân trước khi có thể viết chính sách ràng buộc vật lý.

Cần nghiên cứu thêm về an toàn của ràng buộc vật lý, các phương pháp thay thế để quản lý rủi ro kích động và xác định các yếu tố nguy cơ dẫn đến việc tháo bỏ thiết bị tình cờ.

Kiến thức, thái độ và thực hành của các y tá khoa hồi sức về kiềm chế bằng vật lý Dịch bởi AI
Tập 22 Số 5 - Trang 264-269 - 2017
Mohammad Suliman, Sami Aloush, Khitam Al‐Awamreh
TÓM TẮTĐặt vấn đề

Kiềm chế bằng vật lý chủ yếu được sử dụng trong các đơn vị chăm sóc tích cực (ICUs) để ngăn chặn những bệnh nhân lờ đờ hoặc kích động tháo các ống dẫn và dây nối với họ. Tuy nhiên, việc sử dụng kiềm chế bằng vật lý không đúng cách có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực đến thể chất của bệnh nhân, chẳng hạn như tổn thương dây thần kinh, ngạt thở hoặc thậm chí là tử vong.

Mục tiêu

Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của các y tá về việc kiềm chế bằng vật lý trong các ICUs tại các bệnh viện Jordan, về điều này còn ít được biết đến.

Thiết kế

Thiết kế mô tả và cắt ngang đã được sử dụng.

Phương pháp

Một mẫu thuận tiện gồm 400 y tá đang làm việc tại ba bệnh viện công và một bệnh viện liên kết với đại học từ các khu vực địa lý khác nhau ở Jordan đã được chọn. Một phiên bản tiếng Ả Rập của Bảng hỏi về Kiềm chế bằng Vật lý (PRQ) đã được sử dụng để thu thập dữ liệu.

Kết quả

Tổng cộng có 300 bảng hỏi đã được hoàn thành và trả lại, với tỷ lệ phản hồi là 75%. Trong tổng mẫu, 51% là nam giới, 65,7% đến từ bệnh viện công và 80,3% có bằng cử nhân. Điểm trung bình ở phần kiến thức là 9,7 (SD =1.7) trên tổng số 15; ở phần thái độ, là 24,7 (SD = 4.8) trên tổng số 33; và ở phần thực hành, là 30,9 (SD = 3.5) trên tổng số 42. Các y tá có báo cáo đã có giáo dục liên quan trước đây có điểm cao hơn ở phần kiến thức (điểm trung bình = 10,7; SD = 1.4) so với những y tá không có giáo dục liên quan trước đó (điểm trung bình = 9,1; SD = 1.6; p < .001). Tuy nhiên, không phát hiện sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm này liên quan đến thái độ và thực hành.

Kết luận

Nghiên cứu đã cho thấy một số thiếu sót trong kiến thức và thực hành không an toàn liên quan đến việc kiềm chế bằng vật lý trong ICUs tại Jordan. Nó đề xuất cần cải thiện kiến thức, thái độ và thực hành của các y tá thông qua đào tạo trong công việc về thực hành tốt nhất cho việc kiềm chế, phát triển các chính sách/hướng dẫn và cung cấp đủ nhân lực cùng trang thiết bị để duy trì an toàn cho bệnh nhân và ngăn ngừa biến chứng.

Liên quan đến thực hành lâm sàng

Tiến hành các chương trình giáo dục về kiềm chế bằng vật lý cho các y tá ICU và cung cấp các chiến lược phòng ngừa khác là rất quan trọng trong việc cải thiện kiến thức, thái độ và thực hành của các y tá.

Families in the ICU: do we truly consider their needs, experiences and satisfaction?
Tập 12 Số 4 - Trang 173-174 - 2007
Jos M. Latour, Caroline Haines
Cách mà y tá có thể hỗ trợ người thân của bệnh nhân sắp chết với lựa chọn hiến tạng Dịch bởi AI
Tập 21 Số 4 - Trang 214-224 - 2016
Leanne Mills, Christina Koulouglioti
TÓM TẮTNền tảng

Vào năm 2008, Bộ Y tế Vương quốc Anh đã thành lập Ủy ban Tình nguyện hiến tạng để cải thiện việc hiến tạng trong Vương quốc Anh. Việc biết cách mà các y tá có thể hỗ trợ tốt nhất cho gia đình trong thời điểm này là rất quan trọng để duy trì thực hành tốt nhất.

Mục tiêu

Mục đích của việc tổng hợp tài liệu là tóm tắt các bằng chứng liên quan đến sự hỗ trợ của y tá cho gia đình bệnh nhân sắp chết với lựa chọn hiến tạng.

Chiến lược tìm kiếm

Các cơ sở dữ liệu đã được tìm kiếm từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2013 bao gồm: (a) Cơ sở dữ liệu Giáo dục Y tế Đồng minh (AMED), (b) Chỉ mục Y tá Anh (BNI), (c) Thư viện Cochrane, (d) Chỉ mục Cumulative to Nursing and Allied Health Literature (CINAHL), (e) Bằng chứng từ NHS, và (f) PubMed. Các từ khóa được sử dụng là: hiến tạng, y tá, hỗ trợ, người hiến tạng, gia đình. Tổng cộng có 23 bài báo đã được phê bình để tổng hợp các bằng chứng có sẵn trong 25 năm qua.

Các tiêu chí bao gồm và loại trừ

Các nguồn chủ yếu đề cập đến những người hiến tạng đã qua đời, gia đình của họ và các y tá, được viết bằng tiếng Anh, trong các tạp chí đã được đánh giá đồng nghiệp trong 25 năm qua và được thực hiện quốc tế đã được bao gồm. Các bài báo liên quan đến sự đồng ý, thái độ đối với việc hiến tạng và quan điểm của bác sĩ đã bị loại trừ.

Những phát hiện

Hai chủ đề chính đã nổi lên: (a) sự rõ ràng trong giao tiếp và hiểu thông tin, và (b) năng lực của y tá.

Kết luận

Nghiên cứu này đóng góp cho chủ đề bằng cách đề cập đến sự hỗ trợ cần thiết cho gia đình. Thông tin đúng được cung cấp cho gia đình một cách rõ ràng, nhạy cảm và chuyên nghiệp có thể giúp người thân hiểu lý do tại sao người yêu quý của họ lại trong tình trạng nguy kịch, từ đó giúp họ chấp nhận cái chết và do đó xem xét lựa chọn hiến tạng. Các y tá cần phải được đào tạo thường xuyên để có được các kỹ năng và kiến thức cụ thể nhằm thực hành hiệu quả và đáp ứng đúng nhu cầu của gia đình bệnh nhân sắp chết.

Sự liên quan đến thực hành lâm sàng

Việc tích hợp hiến tạng như một chuẩn mực trong chăm sóc cuối đời có thể giải quyết nhu cầu tang chế bên cạnh việc cải thiện tỷ lệ hiến tạng.

Chăm sóc bệnh nhân mắc bệnh mãn tính nghiêm trọng và gia đình của họ: một nghiên cứu định tính Dịch bởi AI
Tập 22 Số 4 - Trang 229-237 - 2017
Doris Leung, Margaret Blastorah, Linda Nusdorfer, Angie Jeffs, Judy Jung, Doris Howell, Lise Fillion, Louise Rose
TÓM TẮTĐặt vấn đề

Bệnh mãn tính nghiêm trọng (CCI) là một hội chứng phức tạp với nguy cơ tử vong cao trong bệnh viện. Y tá trong khoa hồi sức cấp cứu có vị trí thuận lợi để dẫn dắt các cuộc trò chuyện tích hợp chăm sóc giảm nhẹ và chăm sóc cuối đời, nhưng họ đã báo cáo về việc tham gia有限.

Mục tiêu

Để tạo ra sự hiểu biết sâu sắc hơn về trải nghiệm của y tá đối với bệnh nhân mắc CCI và gia đình họ.

Thiết kế và phương pháp

Nghiên cứu định tính này theo phương pháp mô tả diễn giải của Thorne. Vào năm 2012, 16 y tá khoa hồi sức cấp cứu từ một bệnh viện học thuật đã tham gia phỏng vấn.

Kết quả

Chủ đề chính của chúng tôi là sự căng thẳng nội tâm do sự hiểu biết của người tham gia về quá trình chết dự kiến và kéo dài của bệnh nhân, trong khi muốn bảo vệ gia đình khỏi đau khổ. Sự căng thẳng nội tâm này phát sinh từ trách nhiệm bảo tồn hy vọng cho bệnh nhân và gia đình, trong khi cùng lúc muốn cung cấp thông tin tiên lượng cho họ. Người tham gia đã gặp phải những thách thức: (i) bảo tồn niềm tin của gia đình, (ii) xác định khi nào và làm thế nào để tham gia gia đình vào các cuộc thảo luận, và (iii) cung cấp khả năng có một cái chết 'tốt'. Một chủ đề phụ mô tả những rào cản trong việc hành động dựa trên những hiểu biết của họ do động lực nhóm liên chuyên môn hoặc giao tiếp hạn chế trong nhóm và với gia đình.

#y tá #bệnh nhân mãn tính nghiêm trọng #chăm sóc giảm nhẹ #triệu chứng #y tế #nghiên cứu định tính
Increasing positive end expiratory pressure at extubation reduces subglottic secretion aspiration in a bench-top model
Tập 15 Số 5 - Trang 257-261
Jack Hodd, Alex Doyle, J. W. S. Carter, John Albarran, Peter Young