Fish Offal Recycling by the Black Soldier Fly Produces a Foodstuff High in Omega‐3 Fatty Acids Tập 38 Số 2 - Trang 309-313 - 2007
Sophie St‐Hilaire, Katie Cranfill, Mark A. McGuire, Erin E. Mosley, Jeffery K. Tomberlin, Larry Newton, Wendy M. Sealey, Craig Sheppard, S. N. Irving
Abstract.— The black soldier fly, Hermetia illucens, has the potential to reduce animal waste on livestock facilities and produce an animal‐grade feedstuff high in protein and fat. The lipid content of insects is largely dependent on their diet. Data from this study suggest that black soldier fly prepupae incorporate α‐linolenic acid (ALA), eicosapentaenoic acid (EPA), and docosahexaenoic acid (DHA) when fish offal is included in their diet. Fly larvae were fed three different proportions of fish offal and cow manure diets over a 21‐d trial. An additional group of larvae were fed 22% fish offal diet within 24 h of their pupation. Larvae fed fish offal were, on average, 30% lipid, which was 43% more than the controls fed cow manure only, and approximately 3% of this lipid was omega‐3 fatty acids (EPA, DHA, and ALA). Furthermore, this concentration of omega‐3 fatty acids was achieved within 24 h of feeding fish offal. These omega‐3 fatty‐acid‐enhanced prepupae may be a suitable fish meal and fish oil replacement for carnivorous fish and other animal diets. In addition, they may provide a method of reducing and recycling fish offal from processing plants.
Cho ăn cho ấu trùng cá biển: Thức ăn chế biến hay mồi sống? Dịch bởi AI Tập 24 Số 2 - Trang 211-224 - 1993
Jeannine People Le Ruyet, J.C. Alexandre, Laurence Thébaud, Chantal Mugnier
Tóm tắtTrong việc nuôi ấu trùng cá biển, mọi chế độ ăn có thể giảm sự phụ thuộc vào sản xuất mồi sống đều được quan tâm từ khía cạnh kỹ thuật và kinh tế. Việc cai sữa cho cá juveniles đã phát triển hoàn toàn bộ máy tiêu hóa sang chế độ ăn thông thường (tức là, "cai sữa muộn") có thể thành công ở bất kỳ loài cá biển nào. Chẳng hạn, việc cai sữa cho cá vược biển một tháng tuổi (20 mg) theo chế độ ăn tham khảo của nghiên cứu, Sevbar, đạt tỷ lệ sống trên 85% (40% từ lúc nở) và trọng lượng cá 1,25 g vào ngày thứ 90 (ở 19 độ C).
Ngược lại, việc "cai sữa sớm" cho ấu trùng bằng thức ăn vi mô đặc biệt trong tháng đầu tiên vẫn còn khó khăn. Cách tốt nhất để giảm việc sử dụng mồi sống ở cá vược biển là cai sữa cho ấu trùng có kích thước khoảng 3–4 mg (ngày 20). Nếu cai sữa có thể được thực hiện sớm hơn 15 ngày, việc tiết kiệm Artemia có thể đạt tới 80%. Tuy nhiên, điều này mang lại rủi ro liên quan đến sự chậm lớn (mất 30% trọng lượng) và chất lượng cá juveniles thấp hơn, bao gồm biến đổi kích thước lớn hơn và dị tật xương. Các kết quả tương tự cũng được thu được với các hạt vi mô thương mại (Fry Feed Kyowa) và các chế độ ăn vi hạt thí nghiệm (MBD) tạo ra từ nguyên liệu thô (MBD alginate) hoặc tốt hơn là từ các nguồn protein đông khô (MBD zein).
Việc thay thế hoàn toàn mồi sống vẫn là điều không thể trong cá biển. Những ấu trùng cá vược biển được cho ăn chế độ ăn đã được chế biến từ lần cho ăn đầu tiên (0,3 mg trọng lượng ướt của ấu trùng), hoặc thậm chí từ tuần sống thứ hai trở đi, cho thấy tỷ lệ sống thấp và sự phát triển kém. Kết quả tốt hơn có thể đạt được khi chế độ ăn chế biến được sử dụng cùng với mồi sống từ lần cho ăn đầu tiên, mặc dù tỷ lệ tối ưu giữa mồi sống và thức ăn chế biến vẫn chưa được xác định.
Acclimation of Litopenaeus vannamei Postlarvae to Low Salinity: Influence of Age, Salinity Endpoint, and Rate of Salinity Reduction Tập 33 Số 1 - Trang 78-84 - 2002
William McGraw, D. Allen Davis, David R. Teichert‐Coddington, David B. Rouse
Abstract.— Inland culture of Liropenaeus vannarnei in low salinity well waters is currently conducted on a small scale in a few areas in the U.S. To successfully rear shrimp in low salinity water, postlarvae (PL) must be transferred from high‐salinity larval rearing systems to low‐salinity growout conditions. To determine effective transfer methods, a series of experiments were conducted under controlled conditions to evaluate the influence of PL age, rate of acclimation, and salinity endpoint on 48 h survival of shrimp. Three age classes of L. vannurnei PL (10, 15, and 20‐d) were acclimated from a salinity of 23 ppt to treatment endpoint salinities of 0, 1, 2, 4, 8, and 12 ppt. Survival of PL10 acclimated to 0, 1, or 2 ppt salinity was significantly lower than survival of PL acclimated to salinities of 4, 8, and 12 ppt. Survival of PL, and PL20 shrimp was only reduced for the 0 ppt salinity treatment, thus indicating a clear effect of age on salinity tolerance. The same age classes of PL were acclimated from 23 ppt to final salinity endpoints of I or 4 ppt at three different rates of salinity reduction: low, 19%/h; medium, 258/h, and high, 478/h. Survival was not significantly influenced by the acclimation rates for any of the three PL age classes. As in the fixed rate experiments, survival of the 10‐d‐old PL was significantly lower for shrimp acclimated to the 1 ppt endpoint compared to the 4 ppt endpoint. Under the reported conditions, age appears to influence PL tolerance to a salinity end‐point. A 10‐d‐old PL can be acclimated to 4 ppt with good survival, whereas 15‐ and 20‐d‐old PL can be acclimated to a salinity of 1 ppt with good survivals.
Tái Sử Dụng Nước trong Nuôi Trồng Tôm Bạch Thái Bình Dương, Litopenaeus vannamei, trong Hệ Thống Công Nghệ Biofloc Dịch bởi AI Tập 45 Số 1 - Trang 3-14 - 2014
Dariano Krummenauer, Tzachi M. Samocha, Luís Poersch, Gabriele Lara, Wilson Wasielesky
Tóm tắtViệc sử dụng cùng một nguồn nước qua nhiều chu kỳ nuôi trong hệ thống công nghệ biofloc có thể mang lại nhiều lợi ích. Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của các mức độ nước giàu biofloc khác nhau đối với một số chỉ số chất lượng nước và hiệu suất sản xuất của tôm bạch thái bình dương, Litopenaeus vannamei, giống tôm (3,5 g) được thả với mật độ 312 con/m3 và nuôi trong điều kiện không thay nước. Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian 30 ngày trong hệ thống tank 800L. Tổng cộng có bốn mức độ làm giàu biofloc (25, 50, 75 và 100%) và một đối chứng (0%) được thử nghiệm với ba lần lặp lại mỗi mức. Có sự khác biệt đáng kể về các hợp chất nitơ giữa nước giàu biofloc và đối chứng không làm giàu. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các điều trị giàu biofloc về tỷ lệ sống sót, trọng lượng cuối cùng (8,25 g) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) (1,08). Những con tôm nuôi trong nước biển sạch (tức là không làm giàu biofloc 0%) có trọng lượng nhỏ hơn đáng kể (7,37 g so với 8,25 g) và có tỷ lệ FCR cao hơn (1,52 so với 1,08) so với tôm nuôi trong nước giàu biofloc. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về sản lượng giữa các phương pháp điều trị. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy nuôi trồng trong nước làm giàu biofloc sản xuất ra mức chất lượng nước và hiệu suất tôm cao hơn so với nuôi trồng trong nước biển tự nhiên.
Thay thế một phần bột cá bằng bột đậu nành lên men trong khẩu phần ăn cho cá mú đen, Acanthopagrus schlegelii, giai đoạn giống Dịch bởi AI Tập 42 Số 2 - Trang 184-197 - 2011
Fan Zhou, Wenxin Song, Qingjun Shao, Xiang Peng, Jinxing Xiao, Ying Hua, Bergo Ngandzali Owari, Tingzhou Zhang, Wing‐Keong Ng
Đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc thay thế bột cá (FM) bằng bột đậu nành lên men (FSBM) trong khẩu phần ăn của cá mú đen Acanthopagrus schlegelii. Một thử nghiệm cho ăn kéo dài 8 tuần đã được thực hiện với cá mú đen (11.82 ± 0.32 g; trọng lượng khởi đầu trung bình) trong các bể kính sợi thủy tinh sử dụng hệ thống dòng chảy trong nhà (25 con cá mỗi bể). Sáu khẩu phần ăn có hàm lượng đạm và năng lượng tương đương đã được lập ra, trong đó FM được thay thế bằng FSBM với tỷ lệ 0% (khẩu phần đối chứng), 10% (FSBM10), 20% (FSBM20), 30% (FSBM30), 40% (FSBM40) hoặc 50% (FSBM50) tương ứng. Mỗi khẩu phần được cho cá ăn 2 lần mỗi ngày cho đến khi no rõ ràng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót của cá mú đen trong suốt thử nghiệm cho ăn. Cá ăn khẩu phần FSBM10 hoặc FSBM20 cho thấy hiệu suất tăng trưởng tương đương so với cá ăn khẩu phần đối chứng (P > 0.05), trong khi việc thay thế FM hơn 30% đã ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trọng lượng và tỷ lệ tăng trưởng đặc trưng (P < 0.05). Lượng thức ăn tiêu thụ của cá ăn khẩu phần FSBM50 thấp hơn đáng kể so với cá ăn khẩu phần đối chứng. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) có xu hướng tăng với sự gia tăng tỷ lệ FSBM trong khẩu phần, với FCR thấp nhất được quan sát thấy ở cá ăn khẩu phần FSBM50. Tỷ lệ hiệu quả protein và giá trị sản xuất protein cho thấy các mẫu hình tương tự. Độ tiêu hóa rõ rệt của các chất dinh dưỡng giảm đáng kể với sự gia tăng hàm lượng FSBM trong khẩu phần ăn. Ngoại trừ hàm lượng protein, không có sự khác biệt đáng kể nào về thành phần cơ thể toàn bộ và cơ lưng ở cá ăn các khẩu phần khác nhau. Cá ăn khẩu phần FSBM50 có tỷ lệ nội tạng trong khoang bụng thấp hơn đáng kể so với cá ăn khẩu phần đối chứng hoặc FSBM10. Chỉ số gan-thể trọng và yếu tố điều kiện không bị ảnh hưởng bởi các tác động của khẩu phần ăn. Nghiên cứu này cho thấy rằng có thể thay thế lên tới 20% protein từ bột cá trong khẩu phần ăn của cá mú đen non bằng protein từ bột đậu nành lên men.
The Effects of Different Types of Stress on Blood Glucose in the Giant Tiger Prawn Penaeus monodon Tập 29 Số 3 - Trang 290-299 - 1998
Marcia Hall, Erich H. Van Ham
Abstract— Juvenile Penaeus monodon prawns were exposed to a variety of putative stressom and blood glucose concentrations monitored as an index of metabolic stress. Prawns were held under controlled conditions and food deprived for 12–18 h before blood sampling. Juvenile prawns maintained in tanks at densities of 9, 23, 36 and 50 prawns/m2 for 4 wk did not have significantly different baseline levels of blood glucose, with mean concentrations varying from 1.1 to 1.3 mmol/L. In contrast, as an index of overall condition, antennal length and rostral spine length were significantly degraded in the 36 and 50 prawns/m2 groups compared to the 9 and 23 prawns/m2 groups (P < 0.05). Blood glucose levels were significantly elevated after prawns were exposed to air for 10 min and also increased Significantly when dissolved oxygen was decreased from 6.5 mg/L to 2.1 mg/L. (P < 0.05). Gassing of water from pH 8.5 to 5.9 with carbon dioxide, with a corresponding decrease of dissolved oxygen from 6.6 to 5.9 mg/ L, induced a rapid and significant rise in blood glucose levels from 1.1 to 2.3 mmol/L. In contrast, a decrease of water pH from 8.3 to 5.9 with sulfuric acid, did not result in a significant change in blood glucose concentrations. These findings are discussed in relation to pond management for maintaining prawns in a low stress environment.
Sludge Production and Management for Recirculating Aquacultural Systems Tập 28 Số 4 - Trang 303-315 - 1997
Shulin Chen, David E. Coffin, Ronald F. Malone
AbstractWaste discharge from recirculating aquacultural systems is typically in the form of sludge composed of partially stabilized excreta, uneaten food particles, and bacterial growth. The amount of solids produced can be estimated using an equation presented in this paper. In a typical recirculating system, total suspended solids (TSS) is the major pollutant of the sludge produced. The production of TSS ranges from 10 to 30% of the feeding rate on a dry weight basis. The ratio of 5‐d biochemical oxygen demand to total suspended solids (BODS/TSS) of the sludge ranges from 0.10 to 0.2, the total Kjeldahl nitrogen (TKN) content of the TSS ranges from 4 to 6%, and total phosphorus ranges from 0.2 to 2%.
The nature of the waste and the economics of the treatment processes dictate the disposal of aquacultural sludge. Effective clarification of aquacultural waste is critical in reducing sludge volume. Using lagoons for stabilization and storage is the most practical option. While direct disposal by land application seems feasible for rural areas with dry climates, additional stabilization/storage in a lagoon with eventual disposal through land application seems most feasible for a variety of conditions. The effluent produced from the sludge treatment processes can be used for irrigation or for direct discharge after further polishing (treatment).