Journal of Child Neurology

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
The Demographic, Clinical, and Magnetic Resonance Imaging (MRI) Features of Transverse Myelitis in Children
Journal of Child Neurology - Tập 27 Số 1 - Trang 11-21 - 2012
Terrence Thomas, Helen M. Branson, Leonard H. Verhey, Manohar Shroff, Derek Stephens, Sandra Magalhaes, Brenda Banwell

The authors collected demographic, clinical, and neuroimaging data prospectively on 38 children with transverse myelitis. One child died during the illness. The female:male ratio was 1.2:1 for children under age 10 years and 2.6:1 over age 10 years. Twenty-eight (74%) reported a prodromal event. Twenty-two patients (58%) had longitudinally extensive transverse myelitis, 9 (24%) had focal lesions, and 5 (13%) had both. Twenty of 33 with brain imaging (61%) had brain lesions; 7 fulfilled McDonald criteria for dissemination in space. Seven of 22 (36%) tested had cerebrospinal fluid oligoclonal banding, 6 of whom had brain lesions. Serum neuromyelitis optica IgG antibodies were absent in all 20 of the children for whom this test was available. At follow-up (mean 3.2 ± 2.0 years), 16% are wheelchair-dependent, 22% have persisting bladder dysfunction, and 13% have been diagnosed with multiple sclerosis.

Ketogenic Diets and Pain
Journal of Child Neurology - Tập 28 Số 8 - Trang 993-1001 - 2013
Susan A. Masino, David N. Ruskin

Ketogenic diets are well established as a successful anticonvulsant therapy. Based on overlap between mechanisms postulated to underlie pain and inflammation, and mechanisms postulated to underlie therapeutic effects of ketogenic diets, recent studies have explored the ability for ketogenic diets to reduce pain. Here we review clinical and basic research thus far exploring the impact of a ketogenic diet on thermal pain, inflammation, and neuropathic pain.

Memantine as Adjunctive Therapy in Children Diagnosed With Autistic Spectrum Disorders: An Observation of Initial Clinical Response and Maintenance Tolerability
Journal of Child Neurology - Tập 22 Số 5 - Trang 574-579 - 2007
Michael Chez, Quinn Burton, Timothy Dowling, Mina Chang, Pavan Khanna, Christopher M. Kramer

Autism and Pervasive Developmental Disorder Not Otherwise Specified are common developmental problems often seen by child neurologists. There are currently no cures for these lifelong and socially impairing conditions that affect core domains of human behavior such as language, social interaction, and social awareness. The etiology may be multifactorial and may include autoimmune, genetic, neuroanatomic, and possibly excessive glutaminergic mechanisms. Because memantine is a moderate affinity antagonist of the N-methylD-aspartic acid (NMDA) glutamate receptor, this drug was hypothesized to potentially modulate learning, block excessive glutamate effects that can include neuroinflammatory activity, and influence neuroglial activity in autism and Pervasive Developmental Disorder Not Otherwise Specified. Open-label add-on therapy was offered to 151 patients with prior diagnoses of autism or Pervasive Developmental Disorder Not Otherwise Specified over a 21-month period. To generate a clinician-derived Clinical Global Impression Improvement score for language, behavior, and self-stimulatory behaviors, the primary author observed the subjects and questioned their caretakers within 4 to 8 weeks of the initiation of therapy. Chronic maintenance therapy with the drug was continued if there were no negative side effects. Results showed significant improvements in open-label use for language function, social behavior, and self-stimulatory behaviors, although self-stimulatory behaviors comparatively improved to a lesser degree. Chronic use so far appears to have no serious side effects.

Progressive Myelopathy Mimicking Subacute Combined Degeneration After Intrathecal Chemotherapy
Journal of Child Neurology - Tập 30 Số 2 - Trang 246-249 - 2015
Youbin Yi, Hyung Jin Kang, Hee Young Shin, Keewon Kim

Intrathecal chemotherapy including methotrexate is well documented for neurotoxicity of diverse clinical manifestation. Acute or chronic leukoencephalopathy is the most common type of methotrexate-induced neurotoxicity, and subacute myelopathy is rare. Although its pathogenesis is not fully understood, it is postulated that direct damage of methotrexate to the central nervous system plays a major part and elevated levels of homocysteine and its excitatory amino acid neurotransmitter metabolites (homocysteic acid and cysteine sulfinic acid) could mediate, in part, MTX-associated neurotoxicity. On the while, subacute combined degeneration is a progressive degeneration of the dorsal and lateral columns of the spinal cord, mostly due to vitamin B12 deficiency. The authors report a case of a 15-year-old boy with Burkitt leukemia who developed progressive myelopathy after intrathecal triple therapy (methotrexate, cytarabine, and hydrocortisone) whose clinical and radiologic features were compatible with subacute combined degeneration. The pathogenic mechanism could be explained by biochemical alteration by methotrexate and a possible treatment strategy was discussed.

Bài tổng quan: Diễn tiến thoái hóa thần kinh tiến triển ở trẻ em kèm bệnh lý gan (Hội chứng Alpers-Huttenlocher): Một bài tổng quan cá nhân Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 5 Số 4 - Trang 273-287 - 1990
Brian Harding

Bài viết tổng hợp 32 trường hợp tử thi được xác định là diễn tiến thoái hóa thần kinh tiến triển ở trẻ em kèm theo bệnh lý gan. Tiến trình lâm sàng điển hình là cơn co giật không thể kiểm soát và suy gan sau một thời gian chậm phát triển và không phát triển thể chất trong giai đoạn đầu của trẻ sơ sinh, nhưng một số trẻ em có thể bắt đầu với triệu chứng co giật. Những thay đổi điển hình trên điện não đồ, mất khả năng phản ứng với kích thích thị giác, teo thuỳ chẩm trên quét chụp cắt lớp vi tính, và những thay đổi đặc biệt trên sinh thiết gan có thể hỗ trợ cho chẩn đoán. Hầu hết bệnh nhân tử vong trong vòng chưa đầy 3 năm, nhưng một số có thể sống kéo dài đến tuổi teen, và rất hiếm khi họ có thể xuất hiện ở đầu tuổi trưởng thành. Bệnh lý gan bao gồm thay đổi mỡ, mất hepatocyte, tăng sinh ống mật, xơ hóa, và thường là xơ gan. Tiến trình diễn ra từ từ có thể được theo dõi qua các sinh thiết tuần tự. Về tổng quan, vỏ não có sự tham gia không đều, nhưng thường có sự mỏng đi và đổi màu theo từng vùng, với sự ưu thế rõ rệt cho vỏ não sọc. Những thay đổi vi mô bao gồm sự rỗng, mất neuron, và sự phát triển của tế bào đệm, diễn tiến từ trên xuống dưới qua các lớp vỏ não. Tất cả các khu vực có thể bị ảnh hưởng nhưng vỏ não calcarine thường bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nguyên nhân vẫn chưa rõ ràng, mặc dù rối loạn ty thể và virus chậm đã được giả thuyết. (J Child Neurol 1990;5:273-287).

Hồ Sơ Tâm Lý và Thần Kinh Trong Những Cậu Bé Bị Bệnh Liệt Cơ Duchenne Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 30 Số 11 - Trang 1472-1482 - 2015
Rudaina Banihani, Sharon Smile, Grace Yoon, Annie Dupuis, Maureen Mosleh, Andrea Snider, Laura McAdam

Bệnh liệt cơ Duchenne là một tình trạng thần kinh cơ tiến triển với tỷ lệ cao các khuyết tật về nhận thức và học tập cũng như các rối loạn hành vi thần kinh, một số trong đó đã được liên kết với sự gián đoạn của các isoform dystrophin. Nghiên cứu hồi cứu trên 59 cậu bé đã điều tra hồ sơ nhận thức và hành vi thần kinh của các cậu bé mắc bệnh liệt cơ Duchenne. Chỉ số IQ tổng thể dưới 70 được ghi nhận ở 27%; khuyết tật học tập ở 44%; khuyết tật trí tuệ ở 19%; rối loạn thiếu hụt sự chú ý/hiếu động ở 32%; rối loạn phổ tự kỷ ở 15%; và lo âu ở 27%. Các đột biến ảnh hưởng đến isoform Dp260 và vùng không dịch 5’ của Dp140 đã được quan sát thấy ở 60% người có khuyết tật học tập, 50% người khuyết tật trí tuệ, 77% người có rối loạn phổ tự kỷ, và 94% người có lo âu. Không có mối tương quan thống kê có ý nghĩa nào được ghi nhận giữa các bệnh đi kèm và các isoform dystrophin; tuy nhiên, có một xu hướng mất dần các isoform dystrophin khi chỉ số IQ tổng thể giảm. Đề xuất nên thực hiện các bài kiểm tra tâm lý nâng cao để bao gồm cả các rối loạn nhận thức và hành vi thần kinh cho tất cả các cá nhân mắc bệnh liệt cơ Duchenne.

#bệnh liệt cơ Duchenne #khuyết tật nhận thức #khuyết tật học tập #rối loạn hành vi thần kinh #isoform dystrophin
Ngộ độc thai kỳ ở mẹ có liên quan đến sự giảm tần suất xuất huyết mô nguyên sinh ở trẻ sơ sinh non tháng Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 7 Số 1 - Trang 70-76 - 1992
Karl Kuban, Alan Leviton, Michele Pagano, Terence Fenton, Ruth Strassfeld, Mildred Wolff

Để đánh giá các yếu tố nguy cơ trước sinh và trong sinh liên quan đến sự phát triển của xuất huyết mô nguyên sinh - xuất huyết nội thất (GMH-IVH), chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học tiến cứu trên 449 trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh dưới 1501 gram. Nghiên cứu này cho phép chúng tôi kiểm tra giả thuyết mà chúng tôi đã đưa ra trước đó rằng trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị tiền sản giật có nguy cơ phát triển GMH-IVH giảm đáng kể. Trong số này, bảy mươi hai (16%) trẻ sơ sinh đã phát triển GMH-IVH. Một (2,5%) trong số 40 bà mẹ có chẩn đoán tiền sản giật và 71 (17,4%) trong số 409 bà mẹ không bị tiền sản giật đã sinh ra những trẻ sơ sinh phát triển GMH-IVH. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 6/107 (5,6%) trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị cao huyết áp, bao gồm 4/69 (5,8%) của trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị cao huyết áp thai kỳ, so với 66/352 (18,8%) trẻ sơ sinh từ các bà mẹ không mắc cao huyết áp. Chỉ 7,3% (8/108) trẻ sinh ra từ các bà mẹ có protein niệu đã bị GMH-IVH, so với 18,3% (64/350) trẻ sơ sinh có mẹ không mắc protein niệu. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 5/89 (5,6%) trẻ sơ sinh có mẹ bị cả cao huyết áp và protein niệu, trong khi 63/332 (19%) trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có cả hai yếu tố đó đã phát triển GMH-IVH. Trong phân tích hồi quy logistic từng bước, những phát hiện quan trọng này không thể được giải thích bởi sự hiện diện của cơn chuyển dạ, toan máu sau sinh, cần phải đặt nội khí quản, việc dùng corticosteroids trước sinh, trọng lượng lúc sinh hay tuổi thai. Ngoài ra, chúng tôi phát hiện rằng mẹ nhận được magnesi sulfat có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ngay cả đối với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có tiền sản giật. Chúng tôi giả thuyết rằng mối liên hệ giữa tiền sản giật và GMH-IVH có thể liên quan đến tác động của prostaglandin. Giá trị prostaglandin I2 (PGI2) ở mẹ, nhau thai và dây rốn giảm thường thấy ở những phụ nữ bị tiền sản giật. Do đó, trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị tiền sản giật có thể ở trong trạng thái sinh lý tương tự như những người đã nhận indomethacin, một chất ức chế cyclooxygenase khiến giảm mức PGI2 và là một tác nhân dự phòng GMH-IVH hiệu quả. Chúng tôi kết luận rằng tiền sản giật/ngộ độc thai kỳ ở mẹ trong tam cá nguyệt ba sớm có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ở trẻ sơ sinh non tháng. (J Child Neurol 1992;7:70-76).

Chế Độ Ăn Ketogenic: Kiểm Soát Cơn Động Kinh Tương Quan Tốt Hơn Với β-Hydroxybutyrate Trong Huyết Thanh Hơn Là Với Thể Ketone Trong Nước Tiểu Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 15 Số 12 - Trang 787-790 - 2000
Donald L. Gilbert, Paula L. Pyzik, John M. Freeman

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định mối quan hệ giữa mức độ β-hydroxybutyrate và kiểm soát cơn động kinh ở trẻ em áp dụng chế độ ăn ketogenic. Bảy mươi bốn trẻ em đang thực hiện chế độ ăn ketogenic đến thăm khám định kỳ đã có mức β-hydroxybutyrate trong máu tương quan với sự kiểm soát cơn động kinh của họ. Bốn mươi hai trẻ em nhập viện để bắt đầu chế độ ăn ketogenic đã được đo ketone trong nước tiểu bằng que thử và tương quan với mức β-hydroxybutyrate trong máu tại thời điểm đó. Mức β-hydroxybutyrate trong máu có tương quan thống kê với sự kiểm soát cơn động kinh (P = .003). Trẻ em có mức β-hydroxybutyrate trong máu lớn hơn 4 mmol/L có khả năng giảm tần suất cơn động kinh cao hơn đáng kể so với những trẻ có mức dưới 4 mmol/L. Ketone trong nước tiểu 4+ (160 mmol/L) được phát hiện trên que thử khi mức β-hydroxybutyrate trong máu vượt quá 2 mmol/L. Việc kiểm soát cơn động kinh có tương quan với mức β-hydroxybutyrate trong máu và có khả năng xảy ra cao hơn khi mức này lớn hơn 4 mmol/L. Việc đo ketone trong nước tiểu bằng que thử truyền thống ở trẻ em thực hiện chế độ ăn ketogenic cung cấp một đánh giá kém về mức độ xeton huyết. Ba đến bốn cộng (80-160 mmol/L) ketone trong nước tiểu là cần thiết, nhưng không nhất thiết đủ, để đạt được kiểm soát cơn động kinh tối ưu ở trẻ em trên chế độ ăn ketogenic. Tuy nhiên, hiện tại, ketone trong nước tiểu là phương pháp duy nhất dễ dàng và chi phí thấp để đánh giá mức độ xeton.

#ketogenic diet #β-hydroxybutyrate #seizure control #children #urine ketones
EEG Tích Hợp Biên Amplitude Giúp Dự Đoán Kết Quả Phát Triển Thần Kinh Ở Trẻ Sơ Sinh Đủ Tháng Bị Bệnh Não Thiếu Oxy - Thiếu Máu: Một Phân Tích Meta Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 22 Số 9 - Trang 1069-1078 - 2007
R. Edwin Spitzmiller, Tonya Phillips, Jareen Meinzen‐Derr, Steven B. Hoath

Thiếu oxy não - thiếu máu (hypoxic ischemic encephalopathy) là nguyên nhân phổ biến gây ra các biến chứng thần kinh dẫn đến những tình trạng khuyết tật mãn tính, như bại não. Điện não đồ tích hợp biên (amplitude-integrated electroencephalography – aEEG) đã được sử dụng tại nhiều quốc gia châu Âu trong hơn một thập kỷ qua để đánh giá trẻ sơ sinh bị thiếu oxy não - thiếu máu nhưng chưa được phổ biến rộng rãi tại Hoa Kỳ. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá bằng chứng hỗ trợ việc sử dụng aEEG như một yếu tố dự đoán định lượng kết quả phát triển thần kinh ở trẻ sơ sinh đủ tháng mắc bệnh thiếu oxy não - thiếu máu. Để đánh giá hiệu quả, tác giả đã thực hiện một phân tích tổng hợp các tài liệu nghiên cứu về việc sử dụng aEEG hoặc máy theo dõi chức năng não ở trẻ sơ sinh đủ tháng bị thiếu oxy não - thiếu máu và kết quả phát triển thần kinh của chúng. Có tổng cộng 8 nghiên cứu đủ tiêu chí cho phân tích tổng hợp chính. Tỷ lệ nhạy (sensitivity) chung đạt 91% (IC 95% 87-95) và tỷ lệ nghi ngờ âm tính (negative likelihood ratio) là 0.09 (IC 95% .06-.15) cho các đường cong aEEG để dự đoán chính xác kết quả kém. aEEG là một công cụ quý giá bên giường bệnh để dự đoán kết quả phát triển thần kinh lâu dài ở trẻ sơ sinh đủ tháng mắc bệnh thiếu oxy - thiếu máu. Thông tin này hữu ích trong việc xây dựng kế hoạch giao tiếp và chăm sóc cho bác sĩ và phụ huynh. Các kỹ thuật đánh giá sớm như aEEG cung cấp các phương tiện khách quan để xác định sự tham gia vào các nghiên cứu lâm sàng đánh giá các phương pháp điều trị cho bệnh thiếu oxy não - thiếu máu và dự đoán những bệnh nhân nào có khả năng phản ứng tốt nhất với điều trị.

Rối loạn tâm thần kinh ở nam giới mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne: Tỉ lệ mắc Rối loạn Tăng động Giảm chú ý (ADHD), Rối loạn Phổ Tự kỷ và Rối loạn Ám ảnh cưỡng chế Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 23 Số 5 - Trang 477-481 - 2008
Joseph G. M. Hendriksen, Johan S. H. Vles

Bằng việc sử dụng một nghiên cứu dựa trên bảng câu hỏi, chúng tôi đã đánh giá tỉ lệ mắc rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), rối loạn phổ tự kỷ và rối loạn ám ảnh cưỡng chế được cha mẹ báo cáo ở một nhóm 351 nam giới mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne. Trong số 351 nam giới mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, 11.7% được báo cáo có chẩn đoán kèm theo ADHD, 3.1% có rối loạn phổ tự kỷ và 4.8% mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Có thể kết luận rằng tỉ lệ mắc các rối loạn tâm thần kinh này cao hơn ở nam giới mắc bệnh Duchenne so với dân số bình thường. Phát hiện này, cùng với các báo cáo gần đây về tỉ lệ cao hơn của các vấn đề về nhận thức và học tập ở những người mắc bệnh Duchenne, hỗ trợ quan điểm rằng bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne không chỉ là một rối loạn cơ mà còn là một rối loạn ảnh hưởng đến não bộ. Việc tính đến mối liên hệ tăng cường này là quan trọng trong thực hành lâm sàng. Cần có thêm nghiên cứu để kiểm tra mối liên hệ này và các hậu quả của nó.

#Rối loạn tâm thần #bệnh loạn dưỡng cơ #ADHD #rối loạn phổ tự kỷ #rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Tổng số: 73   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8