International Regional Science Review
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Các thị trấn nhỏ tại Trung Quốc gần đây đã nổi lên như là yếu tố năng động nhất trong phát triển quốc gia và đô thị hóa trong thời kỳ hậu cải cách. Hai loại thị trấn ở tỉnh Quảng Đông phía nam Trung Quốc được phân tích định lượng để làm rõ các đặc điểm chức năng của chúng. Các thủ phủ huyện và thị trấn chợ được phát hiện là khác nhau về hình thức sở hữu doanh nghiệp, cấu trúc việc làm, cơ sở giáo dục và y tế, hạ tầng đô thị, và khả năng hấp thụ lao động dư thừa từ nông thôn. Ngành sản xuất chiếm ưu thế trong việc làm của cả hai loại thị trấn, biến chúng từ các trung tâm thương mại truyền thống thành các trung tâm công nghiệp hiện đại. Các chính sách nên được thiết kế để tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành công nghiệp thuộc sở hữu tập thể của thị trấn nhằm tránh cạnh tranh với các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Trong nghiên cứu áp dụng này, chúng tôi sử dụng dữ liệu từ các hạt của Hoa Kỳ để xem xét các mô hình trong nồng độ hạt mịn (còn gọi là chất liệu hạt mịn hoặc PM2.5) như một tiêu chí đo lường ô nhiễm không khí trong khuôn khổ của đường cong Kuznets Môi trường (EKC). Chúng tôi đặc biệt chú ý đến vai trò của vốn xã hội và khái niệm về sự nông thôn. Nhất quán với những kỳ vọng, chúng tôi phát hiện rằng đỉnh điểm của EKC dao động giữa 24.000 USD và 25.500 USD cho nồng độ PM2.5 tùy thuộc vào ước lượng được sử dụng. Cũng nhất quán với những kỳ vọng, mức độ cao hơn của vốn xã hội tạo áp lực giảm đối với nồng độ PM2.5, nhưng tác động đó yếu hơn ở các khu vực nông thôn hơn. Hệ quả là việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể gây hại cho môi trường ở các mức thu nhập thấp hơn nhưng sẽ cải thiện môi trường khi thu nhập tiếp tục tăng.
Bài báo này tổng hợp các bằng chứng thực nghiệm từ các khu vực của Hoa Kỳ liên quan đến việc đo lường mức độ năng suất và các mô hình thay đổi trong các mức độ này theo thời gian. Tài liệu được xem xét bao gồm cả các nghiên cứu kinh tế lượng và các công trình gần đây đã nhấn mạnh mạnh mẽ tới việc phân tích nguồn gốc tăng trưởng. Các bài viết quan trọng được thảo luận và đánh giá chi tiết, đặc biệt là từ góc độ phương pháp học. Những chủ đề nghiên cứu tiếp theo được gợi ý. Chúng tập trung vào vai trò thay đổi theo thời gian trong mối quan hệ giữa kinh tế tập trung và năng suất đô thị, việc các mức độ năng suất khu vực có hội tụ theo thời gian hay không, và việc hòa giải những ước lượng khác biệt khu vực về năng suất tổng hợp để tính đến, chẳng hạn, các hiệu ứng phân bổ ngành.
Bài báo này phát triển các bài kiểm tra với hệ số Lagrangian (LM) để kiểm tra chung cho hình thức hàm và tương quan sai số không gian. Cụ thể, bài báo này kiểm tra cho các mô hình tuyến tính và log-tuyến tính không có phụ thuộc sai số không gian so với mô hình Box-Cox tổng quát hơn với tương quan sai số không gian. Các bài kiểm tra LM điều kiện và các bài kiểm tra điểm Rao đã được điều chỉnh nhằm bảo vệ chống lại việc xác định sai cục bộ cũng được phát triển. Những bài kiểm tra này dễ thực hiện và được minh họa bằng cách sử dụng dữ liệu tội phạm của Anselin. Hiệu suất của các bài kiểm tra này cũng được so sánh thông qua các thí nghiệm Monte Carlo.
Bài viết này đánh giá sự tiến hóa của cách mà các phương pháp phân tích dữ liệu không gian đã được tích hợp vào các công cụ phần mềm trong hai thập kỷ qua. Nó vừa mang tính retrospective vừa prospective, đi xa hơn một cuộc tổng quan lịch sử để phác thảo một số ý tưởng về các yếu tố quan trọng đã thúc đẩy sự phát triển phần mềm, chẳng hạn như các tiến bộ về phương pháp luận, phong trào mã nguồn mở và sự xuất hiện của Internet và hạ tầng mạng. Bài đánh giá nhấn mạnh các hoạt động được thực hiện bởi tác giả và các cộng sự của ông và sử dụng SpaceStat, GeoDa, PySAL cùng với các dịch vụ phân tích không gian web gần đây được phát triển tại Trung tâm GeoDa của ASU như những ví dụ minh họa. Nó phác thảo một tầm nhìn cho một bàn ngang kinh tế không gian như một ví dụ về việc tích hợp chức năng phân tích không gian vào một CyberGIS.
Bài viết này tổng hợp một kho tài liệu đang phát triển điều tra mối liên hệ giữa "đa dạng nhập cư" và hiệu suất kinh tế đô thị. Khác với trọng điểm về cung lao động trong nhiều nghiên cứu kinh tế về nhập cư, bài viết này xem xét các công trình nghiên cứu về cách mà sự gia tăng tính đa dạng trong cơ cấu lực lượng lao động có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc sản xuất hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng, đặc biệt là trong các nền kinh tế khu vực. Bài viết nhìn lại các nghiên cứu hiện có và lập luận rằng những vấn đề dễ giải quyết trong lĩnh vực này đã được khai thác, đồng thời trình bày một loạt các vấn đề đang chờ giải quyết cần được đề cập trong các nghiên cứu trong tương lai để thực hiện được tiềm năng của công trình này.
Bài báo này đánh giá những tiến bộ gần đây trong tài liệu kinh tế học không gian. Nó phục vụ như một phần giới thiệu cho bộ sưu tập các bài báo mới về phân tích dữ liệu kinh tế học không gian được tập hợp trong số đặc biệt này, cụ thể là những mở rộng mới về góc nhìn mô hình kinh tế học không gian. Mặc dù sự phát triển ban đầu của lĩnh vực kinh tế học không gian diễn ra khá chậm chạp, cách mạng Dixit-Stiglitz và sự xuất hiện của Địa lý Kinh tế Mới đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tầm quan trọng và việc sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu không gian. Những phát triển đồng thời trong các khoa học xã hội khác cũng song song với tình hình này trong lĩnh vực kinh tế. Sự bùng nổ trong kinh tế học không gian chủ yếu được thúc đẩy bởi sự công nhận rằng các mô hình kinh tế học không gian truyền thống không đủ khả năng nắm bắt các phát triển lý thuyết hiện đại. Do đó, số đặc biệt này tập hợp một bộ sưu tập các bài viết về mô hình không gian-thời gian và lựa chọn rời rạc, tính không dừng của không gian và phương pháp luận cùng thực nghiệm của các mô hình tăng trưởng kinh tế vùng.
Bài báo này đặc biệt chú ý đến chiều không gian của vốn công trong tăng trưởng kinh tế khu vực. Chúng tôi giả định rằng tác động của cơ sở hạ tầng đối với năng suất phụ thuộc vào loại cơ sở hạ tầng công cụ mà chúng ta đang xem xét: tức là, các cơ sở hạ tầng địa phương tăng cường hoạt động kinh tế trong khu vực mà chúng nằm trong đó, trong khi cơ sở hạ tầng giao thông và truyền thông có thể tạo ra cả lợi ích ở khu vực mà chúng nằm trong đó và những tràn lợi tích cực hoặc tiêu cực đến các khu vực khác. Chúng tôi cũng đưa ra kết luận liệu mối liên hệ giữa tăng trưởng và vốn công có phụ thuộc vào số lượng vốn công hiện có hay không. Kết quả cho các tỉnh của Tây Ban Nha trong một khoảng thời gian dài cho thấy rằng lợi nhuận từ cơ sở hạ tầng địa phương lớn hơn rất nhiều so với lợi nhuận từ giao thông, mặc dù trong cả hai trường hợp, chúng tôi quan sát thấy sự giảm lợi nhuận mạnh khi tích lũy. Cuối cùng, các hiện tượng lây lan tiêu cực giữa các vùng trong đầu tư vốn giao thông được ghi nhận.
Các hệ sinh thái đô thị được đặc trưng bởi những tương tác phức tạp giữa các yếu tố xã hội, kinh tế, thể chế và môi trường. Những tương tác này tạo ra những cảnh quan do con người chi phối, điều này ảnh hưởng đáng kể đến chức năng của các hệ sinh thái địa phương và toàn cầu, cũng như đến các dịch vụ mà chúng cung cấp cho con người và các dạng sống khác trên trái đất. Phát triển đô thị làm phân mảnh, cách ly và suy thoái các môi trường sống tự nhiên; đơn giản hóa và đồng nhất hóa thành phần loài; làm gián đoạn các hệ thống thủy văn; và điều chỉnh dòng năng lượng cũng như chu trình dinh dưỡng. Các khu vực đô thị cũng chiếm một phần lớn năng lực tải của trái đất từ các khu vực khác về nguồn tài nguyên đầu vào và các bãi thải. Sự thay đổi trong điều kiện sinh thái do các hoạt động của con người ở các khu vực đô thị cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phúc lợi của con người. Trong bài viết này, tác giả tổng hợp bằng chứng thực nghiệm về những tác động mà các mô hình phát triển đô thị gây ra đối với chức năng của hệ sinh thái. Phát triển đô thị ảnh hưởng đến tính đa dạng không gian của cảnh quan (tức là, mô hình biến đổi trong lớp phủ đất) và sự lan rộng của tác động (tức là, các loài xâm lấn). Tác giả đề xuất rằng các mô hình đô thị thay thế tạo ra những tác động sinh thái khác nhau. Bài tổng quan cho thấy rằng các tương tác giữa các mô hình phát triển đô thị và động thái hệ sinh thái vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. Tác giả dựa trên một nghiên cứu thực nghiệm về khu vực đô thị Puget Sound, hiện đang được phát triển tại Đại học Washington, để đề xuất những định hướng cho nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai, có thể giúp thông báo các chiến lược nhằm giảm thiểu tác động của đô thị đến các hệ sinh thái.
Elhorst cung cấp các quy trình Matlab để ước lượng các mô hình bảng không gian tại trang web của ông ấy. Bài báo này mở rộng các quy trình đó để bao gồm quy trình hiệu chỉnh độ thiên lệch được đề xuất bởi Lee và Yu nếu mô hình bảng không gian chứa các hiệu ứng cố định không gian và/hoặc thời gian, các ước lượng hiệu ứng trực tiếp và gián tiếp của các biến giải thích được đề xuất bởi LeSage và Pace, và một khung lựa chọn để xác định mô hình bảng không gian nào mô tả dữ liệu tốt nhất. Để minh họa các quy trình này trong môi trường thực nghiệm, một mô hình cầu nhu cầu cho thuốc lá được ước lượng dựa trên dữ liệu bảng từ bốn mươi sáu tiểu bang của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1963–1992.
- 1